Nguyên Viên - Lê Duy Đoàn
Những điều tôi viết ra dưới đây đều
là sự thật. Những ngày tháng và sự việc xảy ra trong những lần Mẹ tôi bị bệnh nặng
liệt giường rồi chỉ qua một đêm , sau khi được Bồ Tát Quán Thế Âm phóng quang cứu
độ, mọi bệnh tật của Mẹ tôi dường như được chửa lành ngay lập tức. Sự mầu nhiệm
của Linh Ứng Quán Thế Âm là “không thể
nghĩ bàn” vì không thể đem những luận chứng y khoa để giài thích trường hợp
lành bịnh kỳ diệu của Mẹ tôi.
Mẹ tôi là Bà Trương thị Luân, sinh
năm 1923, qua đời năm 2010,theo tuổi ta là thọ 88 tuổi. Mẹ tôi người làng Vỹ Dạ,
làm dâu họ Lê Duy làng An ninh hạ, năm 1951 về định cư ở phường Phú Thạnh,
thành phố Huế cho đến khi qua đời. Những chuyện tôi kể dưới đây xảy ra tại nhà
tôi ở số 77 đường Thống nhất, thành phố Huế.
1.
Một lần sa bằng
ba lần đẻ:
Ngày 18-5 năm Ất
Tỵ ( tức là ngày 17/6/1965), Mẹ tôi đi chợ sớm để lo kỵ Cố nội tôi ngày hôm
sau.Lúc này Mẹ tôi đã mang thai hơn 6 tháng. Vừa bước xuống xe buýt Đông Ba- An
Hòa, Bà thấy nặng phía bụng dưới, một
tay ôm bụng, một tay xách giỏ . Chưa kịp vào nhà thì Mẹ tôi đã sa em bé trai
trên nền và khuỵu xuống. Tôi hoảng hốt
chạy đến nâng Bà lên và dìu vào giường nằm nghỉ. Ba tôi chôn cất em bé bị sa dưới
chân mộ Ông nội tôi.
Mẹ tôi buồn và đau.Bà bị băng huyết nặng. Thay vì đưa
đến bịnh viện thì Ba tôi lại đưa Bà đến nhà hộ sinh Kim Anh cũng trên đường Thống
nhất ở gần cầu Bạch hổ. Ba tôi nghĩ đơn
giản nhà hộ sinh ở gần nhà tôi, chăm sóc đôi ba ngày cầm máu,Mẹ tôi khỏe rồi về.
Nào ai ngờ, nằm 3 ngày ở đây, Mẹ tôi sốt cao và có khi mê man không biết gì. Cô
Anh, nữ hộ sinh, nói với chúng tôi là không hề gì, nhưng tôi không yên tâm, bàn
với Ba tôi rồi thuê xích lô Bác Phượng chở thẳng qua cấp cứu ở Khoa Sản bịnh viện
Trung Ương Huế.
Các bác sĩ hội chẩn kết luận là Mẹ tôi bị sót nhau nên
gây ra xuất huyết và sốt cao.
Sáng hôm sau, Mẹ tôi được đưa vào phòng mổ Khoa sản để
nạo nhau thai bị sót trong dạ con.
Bác sĩ Lê viết Kiểu phụ trách thủ thuật nạo. Ông là thầy
dạy của tôi môn động vật ở lớp Dự bị Đại
học khoa học (SPCN). Ông nói, chuyện này nếu đưa đến bịnh viện sớm thì rất dễ
nhưng vì đưa qua đây trể mấy ngày nên trở thành khó. Sau khi làm thủ thuật
xong, Mẹ tôi được đưa về phòng hồi sức. Đang kỳ nghỉ hè nên tôi rảnh,tôi ở lại
chăm sóc Mẹ tôi cả ngày đêm, mấy em gái thay nhau ban ngày. Nằm hồi sức 3 ngày
Mẹ tôi không khá lên chút nào, không ăn uống gì được, sốt cao và thỉnh thoảng
mê man. Chỉ bón nước cam và nước cháo với
ít muối đường cầm hơi. Thấy Bà suy kiệt tôi trực tiếp gặp Thầy Kiểu cầu cứu.
Ông nói rằng, ngày mai Ông xếp lịch phẩu thuật lần nữa, chưa biết kết quả ra
sao chứ lần trước, Ông cũng làm kỹ lắm rối. Hàm ý của Ông là nếu lần này mà
không thành công thì Ông cũng bó tay.Suốt đêm đó tôi ở lại bịnh viện không ngủ
được,nhìn Mẹ tôi nằm xuội lơ, lòng tôi quặn đau với ý nghĩ lần này Mẹ tôi có thể
bỏ gia đình tôi mà đi.
Trong thời gian Mẹ tôi bi nạn, các Đạo hữu trong Khuôn
hội Phật giáo Phú Thạnh tổ chức tụng kinh Pháp hoa và lễ cầu an cho Mẹ tôi hằng
đêm.( Ba tôi là Ông Lê duy Dung, Chánh thư ký Khuôn hội Phú Thạnh). Trong gia
đình tôi, tôi cũng là huynh trưởng và các em tôi là đoàn sinh Gia đình Phật tử.
Mọi người đều thành tâm niệm danh hiệu Đức Quan Thế Âm nguyện cầu hồng ân Bồ
tát hộ trì cho Mẹ tôi tai qua nạn khỏi.
Suốt đêm mê man nhưng tới gần sáng, Mẹ tôi bổng nhiên
mở mắt, thấy tôi, Mẹ tôi hỏi nước uống, tôi vui mừng vắt cam cho Bà uống. Mẹ tôi dần tươi tỉnh lại và kể:” Mẹ thấy một
người đàn bà khuôn mặt phúc hậu mặc áo màu trắng đứng trên đầu giường đưa tay đặt
lên trán Mẹ, chừ Mẹ thấy trong người khỏe ra” . Tôi đưa tay áp trên trán thấy Mẹ
tôi không còn sốt nữa.
Đến giờ làm việc,hai nữ y tá đẩy xe băng-ca đến để đưa
Mẹ tôi qua phòng mổ. Họ đã theo dõi hàng ngày và biết Mẹ tôi sốt mê man nên định
nhấc bổng Mẹ tôi từ giường qua băng-ca.
Mẹ tôi nói với họ:” Thôi tui khỏe rồi, để tui vịn rồi đi bộ cũng được”.
Thế rồi Mạ tôi vịn xe băng -ca đi đến phòng mổ như một người bình thường.
Sau phẩu thuật, Mẹ tôi hết sốt. Nằm thêm 3 ngày theo
dõi thấy sức khỏe Mẹ tôi hồi phục,Bác sĩ Kiểu ký giấy cho Mẹ tôi xuất viện và
chúc mừng Bà tai qia nạn khỏi.
Tính ra từ khi sảy thai, 2 ngày nằm nhà, 3 ngày ở nhà
hộ sinh Kim Anh, và 1 tuần ở bịnh viện Trung Ương Huế, Mẹ tôi đã trải qua gần 2
tuần cận kề cái chết.
Người đàn bà phúc hậu mặc
áo trắng đứng trên đầu giường đặt tay trên trán Mẹ tôi chắc hẳn là hiện thân của
Bồ Tát Quan Thế Âm.
2.
Mẹ tôi đứng dậy
đi và chạy sau thời gian dài bại liệt:
Năm 1965 và năm 1966, Mẹ tôi bị 2 lần sảy thai. Sức khỏe
của Bà yếu dần, thường hay có triệu chứng tê dại tay chân. Tôi thường đi với Mẹ
tôi đến các nơi Bà điều tri. Tây y thì khám Bác sĩ Bách, Bác sĩ Hà. Đến bịnh viện
Trung Ương Huế để chạy điện ( dùng điện kích thích dây thần kinh vận động).Đông
y thì đến Thầy Bông, Thầy Viên bốc thuốc.
Châm cứu thì nhờ Bác Huyên, con Ôn Phong khuôn trưởng Khuôn hôi Phú Thạnh .Dù đi nhiều nơi
chữa nhiều phương cách nhưng bịnh tình không thuyên giảm.
Đến ngày 18/8/1967, Mẹ tôi sinh út gái thì bịnh tê bại
của Mẹ tôi trở nặng. Cho đến gần Tết Mậu thân, thì Mẹ tôi bại liệt toàn thân.
Tiêu tiểu tại chỗ. Mẹ tôi đau khắp cơ thể nên việc chăm sóc cực kỳ khó khăn.
Ngay việc xoay trở người Mẹ tôi cũng không tự mình làm được mà phải có người trợ
giúp. Tình cảnh Mẹ tôi thật là bi đát, không mong gì chữa trị cho lành bệnh,
Thế rồi , đến sự kiện Tết Mậu thân (1968). Nhà tôi ở
khu vực giao tranh, đạn bom vây quanh. Ba tôi và 2 anh em trai chúng tôi đào 2
cái hầm tránh bom đạn. Một cái ngoài nhà, dưới gốc cây đào ( trong Nam gọi là mận).
Một cái hầm trong nhà, lấy bao cát chất lên mấy tấm ngựa gõ.
Từ đêm mồng 1 Tết cho đến ngày tám tháng giêng, chúng
tôi nằm ở nhà chịu đựng. Đến chiều ngày mồng tám, thấy bom đạn quá ác liệt, tôi bàn
với Ba tôi di tản đến nơi an toàn hơn. Chúng tôi xếp đặt hành lý để sáng hôm
sau mỗi người xách 2 giỏ đồ dùng cần thiết chạy tránh bom đạn.
Mẹ tôi bị bại liệt, tối đó,tôi bảo em trai tôi đỡ Bà
lên lưng để tôi thử cỏng đi. Bước đi đôi ba vòng trong nhà khô ráo thì cũng tạm
được nhưng ngoài trời mưa phùn, gió bấc lạnh lẽo,đường bị bom đạn cày xới bùn đất
nhão nhẹt, Mẹ tôi lại mập và nặng, tôi e rằng thế nào 2 mẹ con cũng bị té.
Trong lòng thấy lo lo nhưng biết làm sao hơn !.
Tối hôm đó , đích thân tôi dìu Bà xuống dưới hầm trong
nhà, trấn an Bà nằm yên dưới đó xong tôi tiếp tục sắp đặt hành lý cho ngày mai
đi sớm.
Khoảng 5 giờ sáng hôm sau( ngày mồng 9- giêng Mậu thân)
tôi thức dậy, vô cùng ngạc nhiên thấy Mẹ tôi đã ngồi trên miệng hầm trú ẩn. Tôi
hỏi: “ Ai dìu Mẹ lên đây ?” Bà trả lời:”
Mẹ tự bò lên chứ có ai dìu mô !” Bà kể tiếp:” Hồi hôm Mẹ thấy Đức Bồ Tát Quan
Thế Âm 3 lần, Lần thứ nhất, Ngài ngồi
trên tòa sen, lần thứ hai thấy Ngài ngồi
trên kiệu như kiệu chùa mình rước Phật Đản rứa, lần thứ ba Mẹ thấy Ngài cởi hạc
bay lên Trời. Lần nào Ngài cũng mĩm cười và lấy cành dương rảy nước Cam lồ xuống
người Mẹ. Mẹ chắp tay lạy với theo cho đến khi Ngài bay mất. Mẹ thấy trong người
khỏe lắm nên tự bò lên đây”.
Tôi cảm nhận sự Linh ứng Quán Thế Âm đến với Mẹ tôi y
như lần trước. Cả nhà tôi ai cũng mừng. Tôi nói với Mẹ tôi :” Cám ơn Trời Phật,
để con dìu Mẹ đi thử được không?” Tôi và em trai tôi dìu hai bên. Mẹ tôi nằm bại
xuội lâu ngày nên bước đi còn lóng cóng khó khăn nhưng dù sao cũng dìu đi được,
đở phải cỏng . Đặt Bà ngồi bên canh đống giỏ xách, Tôi nói:” Rứa là tốt lắm rồi,
Mẹ ngồi đây chờ một lát, Con với Ba con sắp dọn một chút rồi đi.”
Hai cha con loay hoay sắp bộ lư đồng., một số đồ tuế
nhuyễn vô 2 cái thúng, sữa soạn quang gíóng
gánh đi. Quay qua phía Mẹ tôi ngồi, hai cha con phát hoảng. Mẹ tôi và
các em xách hành lý đi đâu mất. Tôi chạy vội ra đường nhìn dọc quốc lô Thống nhất,
không thấy bóng ai cả. Lòng tôi phân vân lo lắng vô cùng. Trời mưa phùn, lạnh cắt
da, đường sá bùn đất lầy lội như thế này Mẹ tôi đi cách nào đây !?.
Hai cha con đi xuống bến sông Bạch Yến trước nhà. May có chiếc ghe của ai neo ở bến,chúng tôi mượn
đở rồi chống ghe qua sông. Đang giữa dòng, một chiếc máy bay, bay dọc sông thả
xuống một quả bom. May mà bom nổ ở chỗ khá xa nên chúng tôi chỉ hoảng sợ chứ
không bị thương.
Chúng tôi đi theo ngã Vạn xuân lên phía nhà thờ rồi
lên cấu An ninh hạ. Người chạy loạn rất đông trong số đó có Mụ Bác là O ruột của
Ba tôi. Có người mách cho biết là Mẹ tôi và các em đang ở tạm trong Đại chủng viện Công giáo Kim
long. Đây là khu vực rộng lớn, xây dựng từ thời Pháp thuộc, có nhiều tòa nhà lầu
và nhà giảng rộng rãi và kiên cố. Gia đình tôi trải chiếu ngồi trên nền nhà giảng
cách cửa chính vô ra khoảng 15 mét. Mẹ tôi ngồi đó, thấy Bà khỏe khoắn không có
dấu hiệu gì của bệnh bại liệt. Tôi hỏi:” Răng Mẹ lên được đây ?”, Các em tôi
tranh nhau kể đầy phấn khích:” Ban đầu thì bọn em dìu Mẹ đi, rồi một chặp sau,Mẹ
tự đi một mình. Khi lội qua chỗ nước cạn gần nhà Bác Phú thì một chiếc máy bay
bỏ bom. Ai cũng hoảng, chạy cuống cuồng. Mẹ cũng chạy luôn. Rứa mới lạ chứ!”.
Chắc là Mẹ tôi vùng chạy khi máy bay bỏ bom lúc 2 cha con tôi qua sông.
Ngồi trong nhà giảng tường dày, mái ngói kiên có như
thế nhưng Mẹ tôi có cảm giác bất an, Linh tính như có ai bảo với Mẹ tôi là ở đây
nguy hiểm,đi trú chỗ khác đi. Bà cứ nằng nặc đòi dời đi.
Hai cha con đi tìm chỗ ở nhà dòng phía trên gần chợ
Kim long thì toàn bộ các phòng ờ tầng trệt các tòa nhà kiên cố đều chật kín người.
Chỉ có chỗ nhà để xe mái lợp tôn gần đường lộ là còn trống. Xung quanh nhà xe
không có vách, trên là một mái tôn rung lên bần bật mỗi lần có bom đạn dội.
Tối ngày 9 tháng giêng Mậu thân, gia đình tôi trú tạm
ở đó.
Nửa đêm, một tiếng nổ lớn ở phía nhà dòng mà chúng tôi
vừa rời đi. Sáng hôm sau, nghe tin báo là nhà giảng bị trúng một quả
cà-nông chơm trên nóc đúng vị trí gia
đình tôi ngồi hôm trước. Những mảnh đạn
giết chết và làm bị thương nhiều người trong hai gia đình Bác Bá ở Cửa Hữu và
Bác Khả cách nhà tôi 5 căn nhà. Thật là đau đớn, xót xa.
Từ khi Mẹ tôi bị bại liệt nằm một chỗ, được nước Cam lồ
của Bồ tát Quán Thế Âm chữa trị lành bệnh từ ngày 9 tháng giêng năm Mậu thân, cho đến ngày Bà
qua đời 29 tháng 3 năm Canh dần (2010) Mẹ tôi không bị bại liệt một lần nào nữa.
3.
Kết:
Mẹ tôi là người
hiền đức , nhân hậu, ai cũng thương . Khi Bà lâm bịnh nặng, Bồ Tát Quan Thế Âm đã
linh ứng chữa lành bịnh cho Bà một cách kỳ diệu .
Nam mô Cứu khồ Cứu nạm Quan
Thế Âm Bồ Tát.