Giọng
Quảng - Gần thương, xa nhớ.
Lê
Duy Đoàn
Năm 1984. Quận 3, Sài gòn. Một buổi chiều mùa hè.
Mây thấp. Mưa giông đột ngột xô tới dội nước ào ạt.
Gió thốc thổi bụi nước bay ngang tạt vào nhà tôi dù nhà có mái hiên rộng. Một
nhóm năm sáu người đàn ông trung niên vội vã chạy vào đứng chen chúc nhau tránh
mưa dưới hiên nhà. Cánh cửa sắt xếp khép hờ. Thấy họ bị mưa tạt, tôi ân cần mở
rộng cửa nhà: “ Vô đây, vô đây. Đừng
ngại. Mấy anh đứng hẳn vô trong nhà để tránh mưa, không khéo ướt hết chừ”. “ A,
người Huế. Cám ơn. Tui cũng người Huế đây nì. Răng vô đây lâu chưa mà không đổi
giọng hay rứa hè. Nghe giọng Huế đặc sệt, bức sướng”. Tôi hỏi ngược lại: “ Rứa
răng anh ở đây lâu rồi mà không pha giọng?”
“ Người Huế mình, dân ở mô nói mình nghe cũng được,
cũng hiểu. Khó nghe, khó hiểu như giọng Quảng, giọng Bình Định, Phú Yên dân
mình đều nghe được hết và biết họ nói cái gì. Rứa thì mình nói họ phải ráng nghe,
ráng hiểu. Người ta cho là giọng Huế mình trọ trẹ khó nghe, lạ tai khó hiểu. Họ
nghe không được thì thôi. Kệ. Mình cứ nói giọng Huế của mình, cần chi phải thay
đổi. Không hiểu thì nếu họ cần, họ hỏi lại, tới khi mô hiều được thì thôi. Người
Huế đổi giọng nhại theo giọng xứ khác, miền khác nghe nửa đực nửa cái, kỳ cục lắm”.
Hỏi ra, anh chàng là một đạo diễn nỗi tiếng của đài
truyền hình thành phố, du học ở Úc chuyên ngành truyền hình về nước trước 1975.
Anh chàng có nghề và có tài nên được trọng dụng. Lối
ăn nói của anh chàng có vẻ ngang tàng nhưng lập luận cũng dễ nghe, cũng lọt lổ
tai…người Huế. Nghe ra tự ái dồn dập.
“Họ nghe không được thì thôi. Kệ. Mình cứ nói giọng Huế của mình”.
* *
Nói thật lòng, dạy học bốn niên khóa ở trường trung
học Đại Lộc, tôi thấy mình gần gũi thân tình với thầy trò và người dân ở đó nhiều
lắm. Thị trấn Ái Nghĩa nhỏ nhắn, dân cư thưa thớt nhưng học trò có chí cầu học
và nhiều em thông minh học giỏi. Các em biết rằng chỉ có con đường đó mới dẫn
các em lên cao và đi xa . Người dân Quảng nam nhiều người học giỏi, đi xa và
thành danh trong nhiều lãnh vực của xã hội. Vì các em cần cù và chịu khó học tập
nên về phía học trò và phụ huynh việc thương mến, kính trọng thầy cô giáo như
là lẽ đương nhiên. Tôi được dạy dỗ trong cái lẽ đương nhiên đó nên thấy vui với
nghề mặc dù lúc tôi dạy ở đó thì dân cư tại chỗ không khá giả lắm,tình hình
chính trị nhiều rối rắm, chiến sự ác liệt, kinh tế có phần sa sút, vật giá leo thang và dân tình nhiều nỗi hoang
mang.
Mới đầu, tôi làm quen với giọng Quảng và học sinh
làm quen với giọng Huế chay của tôi. Tôi thường hỏi các em: “Các em có nghe giọng
thầy được không? Em nào nghe không được thì cứ tự nhiên hỏi lại, thầy không phiền
hà gì đâu”.
Giọng Quảng Nam ở vùng Đại Lộc có lối phát âm và âm
sắc có phần nặng hơn ở Đà nẵng và Hội An. Hai nơi ấy là nơi tôi thường về ở lại
sau những ngày dạy học.
Buổi sáng, tôi dạy các lớp đệ nhị cấp. hai môn là Vạn
vật và Lý hóa, buổi chiều tôi dạy sử địa và Việt văn ở các lớp đệ nhất cấp. Kể
ra, thời đó thầy cô cũng đa năng và đa hiệu thật.Môn gì cũng dạy được. Dạy tuốt
và dạy tốt.
Học trò lớp 11 ban A, ban B chăm học vì cuối năm thi
tú tài bán phần là một mốc quyết định của cuộc đời. Đời các em lên hương hay
không tùy thuộc nhiều vào việc vượt qua được kỳ thi này hay không.
Dạy mấy lớp 6,7,8 rất vui. Học trò ngoan hiền, ngây
thơ nhưng lanh lợi và sinh động. Giọng Quảng của các em nữ sinh nghe thanh tao
và ríu rít như tiếng hót chim non. Có hôm vào dạy lớp 6 môn Việt văn, tiết chính
tả, tôi đọc một đoạn để các em chép vào vở rồi chờ vì sợ các em chưa quen giọng
của tôi. Tôi cố ý đọc chậm và rõ…kiểu Huế để các em nghe và nhận ra chữ nghĩa. Mấy
em nữ sinh xinh xắn ngồi ở mấy bàn đầu sát bục giảng viết đoạn đó xong rồi, nhao
nhao: “ Kêu đi thài, kêu đi thài”. Ủa, mình là con chi đây mà học trò nói mình kêu!?Tự
nhiên, tôi thấy mắc cười quá, phải ra đứng ngoài cửa giả bộ ngó quanh như tìm
kiếm ai, để cười mà không dám cười lớn. Nín cười xong, vào dạy tiếp, suốt giờ học
mấy em cứ nói kêu đi thài, kêu đi thài miết.
Về ngồi nghỉ ở phòng giáo sư 15 phút giờ ra chơi,
tôi kể chuyện vừa xảy ra trong lớp, mấy thầy cô giáo người Quảng cười vang: “
Thầy nghe lần đầu chưa quen chứ ở đây học trò nói thầy nhắc bài, đọc bài đều
nói là kêu cả”. À ra thế!
Dạy môn sử lớp 8, có giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc nói về vua Quang Trung đại phá quân Thanh. Diễn tiến lịch sử cuốn hút sự lưu tâm của các em. Giảng đoạn đó, người thầy cảm thấy tự hào như là mình đang xung trận đánh giặc Tàu. Nghe đoạn đó, học trò thấy sôi trong lòng dòng máu anh hùng chống kẻ thù truyền kiếp Bắc phương.
Lịch sử có đoạn:
Vua
Quang Trung Đại Phá Quân Thanh.
Bắc
Bình Vương Nguyễn Huệ được tin quân nhà Thanh đã sang đóng ở Thăng Long, lập
tức hội các tướng sĩ để bàn việc đem binh ra đánh, các tướng đều xin hãy chính
ngôi tôn, để yên lòng người rồi sẽ khởi binh.
Bắc
Bình Vương bèn sai đắp đàn ở núi Bàn Sơn, ngày 25 tháng mười một năm mậu thân
(1788), Vương làm lễ lên ngôi Hoàng Đế, rồi tự mình thống lĩnh thủy bộ đại binh
ra đánh giặc Thanh. Ra đến Nghệ An nghỉ lại 10 ngày để kén lấy thêm binh, cả
thảy được 10 vạn quân và hơn 100 con voi.
…Quân
số của vua Quang Trung chỉ có 10 vạn quân, có nhiều quân mới tuyển, chỉ trong
mấy ngày mà quân Việt đã đánh tan 29 vạn quân Tàu do tổng đốc Lưỡng Quảng là
Tôn Sĩ Nghị chỉ huy khiến hắn ta không kịp mặc áo giáp và không kịp thắng yên
cương, lên ngựa đem mấy tên lính kỵ chạy trốn lúc nửa đêm. Quân các trại nghe
tin như thế, xôn xao tan rã chạy trốn . Lính Tàu dồn đạp nhau chạy qua cầu phao
bắt ngang sông Nhị Hà làm sập gảy cầu phao, ngã xuống sông chết đuối nhiều vô
kể làm nghẻn cả một khúc sông. Vua Quang Trung dẫn quân vào thành Thăng Long
ngày mồng 5 Tết Kỷ Dậu sớm hơn dự định hai ngày.
Thế mà khi làm bài thi đệ nhất lục
cá nguyệt, mười học sinh thì có đến 6,7 em viết “100 con voi” thành ra“ 100 con
vua”. Người Quảng nói âm OI thành UA nên học sinh nói sao viết vậy. Vua Quang
Trung ra nghỉ ở xứ Nghệ có 10 ngày mà ở đâu ra đến 100 con vua!? Tài thật.
* *
Gần gũi thầy cô giáo và học sinh
trong một thời gian dài, tiếp cận những người dân chơn chất thật lòng, nghe
quen giọng Quảng với ngữ điệu lên giọng xuống giọng vui tai, tôi chẳng còn thấy
xa lạ với giọng nói ấy. Trong giòng chảy tình cảm của mình có một giòng của
giọng Quảng. Có lẽ sống lâu ngày cùng với giọng Quảng, người Huế như tôi thấy
giọng Quảng cũng dễ thương . Hay là vì tôi lậm tình với cô giáo Quảng nên yêu
luôn giọng nói ấy không chừng? Sao mà qua làn môi mọng và nét môi khi phát âm
giọng Quảng, tôi thấy giọng Quảng của mấy cô nàng đáng yêu thế.
“Chửi choa khơng bèng phoa giạng”
(Chưởi cha không bằng pha giọng) là câu mấy cô giáo hay nói để trách cứ một
người nào đó không phải là người Quảng nhưng lại giả giọng Quảng theo kiểu nói
“ba rọi”. Tôi chẳng dám “núa” giọng Quảng ở giữa đám đông. Chỉ ở nơi riêng tư,
ngồi với nàng ( không biết là mấy nàng) tôi thỉnh thoảng pha giọng để thấy nàng
ngúng nguẩy làm mặt giận và có cớ dỗ dành.
Người xứ khác bắt chước giọng Quảng thì nói
là nhại giọng, pha giọng. Chính người Quảng diễu giọng nói của họ thì chẳng ai
bắt bẻ,chẳng ai phiền lòng mà đôi khi còn phụ họa nhau cho vui.
Nguyễn Nhật Ánh, nhà văn nổi tiếng xứ Quảng nói đùa trong
bài “Về giọng nói ở một nơi không có xe lam, xe đạp” vì ở Quảng Nam chỉ có xe
lôm, xe độp.
Trong bài
này ông kể hai câu chuyện hài hước về giọng Quảng :
1.
Một
người Quảng Nam đi vào một cửa hàng bán phụ tùng xe ở Sài Gòn, cố uốn giọng để
phát âm cho chuẩn, oái ăm sao rốt cuộc lại thành: “Bán cho tôi một cái... láp
xe độp”. Người bán sau một hồi gặng hỏi, bực mình: “Lốp xe đạp” thì nói đại là
“lốp xe đạp” ngay từ đầu, còn bày đặt... nói lái là “láp xe độp”. Nào có cố
tình lái liếc gì đâu, thật oan còn hơn oan Thị Kính!
2.
Khách đòi mua bánh bèo đem về, con Cúc kêu con Lệ:
- Chị kiếm cho em cái “bô”!
Chữ “cái bao” qua cái giọng Quảng
nguyên chất của con Cúc biến thành “cái bô” khiến con Lệ thừ ra mất một
lúc. Rốt cuộc, tuy không hiểu con Cúc kiếm cái bô làm chi, con Lệ vẫn vào toa
lét cầm cái bô đem ra: -Nè.
Con Cúc ré lên:
- Trời, lấy cái ni đựng bánh bèo cho khách răng được?”(1)
Thêm một câu chuyện sau đây do ông Trần Tuyết, một thầy giáo người Quảng Ngãi (trước đây là hiệu trưởng trường trung học Tỉnh Hạt, thị xã Quảng Ngãi) kể tôi nghe:
Khám bịnh xong
bác sĩ nói với cô bệnh nhân trẻ:
- Cô cho tôi xin số điện thoại của cô để khi nào có kết quả khám sức khoẻ thì tôi sẽ gọi điện báo cô hay.
Cô gái trẻ trả lời:
- Dợ, hai ba bửa tém một bửa !
Bác sĩ lắc đầu:
- Không! chuyện tắm rửa của cô thì tôi không cần biết. Số điện thoại của cô á !
Cô gái trẻ trả lời:
-Dợ, hai ba bửa tém một bửa!
Bác sĩ lắc đầu mạnh hơn:
- Cô tắm mỗi ngày 2, 3 bận hay là 2,3 tuần cô tắm một lần thì tôi không cần biết.....Số điện thoại của cô kìa..
Cô gái trẻ tức tối trả lời:
- Dọa! em đỏa núa sớ của em lòa hai ba bửa tém một bửa.( Dạ, em đã nói số của em là 237.817)
- Cô cho tôi xin số điện thoại của cô để khi nào có kết quả khám sức khoẻ thì tôi sẽ gọi điện báo cô hay.
Cô gái trẻ trả lời:
- Dợ, hai ba bửa tém một bửa !
Bác sĩ lắc đầu:
- Không! chuyện tắm rửa của cô thì tôi không cần biết. Số điện thoại của cô á !
Cô gái trẻ trả lời:
-Dợ, hai ba bửa tém một bửa!
Bác sĩ lắc đầu mạnh hơn:
- Cô tắm mỗi ngày 2, 3 bận hay là 2,3 tuần cô tắm một lần thì tôi không cần biết.....Số điện thoại của cô kìa..
Cô gái trẻ tức tối trả lời:
- Dọa! em đỏa núa sớ của em lòa hai ba bửa tém một bửa.( Dạ, em đã nói số của em là 237.817)
Nhiều
người Quảng đọc chuyện này cho rằng nói như vậy là không đúng giọng Quảng.
Nói đúng giọng Quảng là như thế nào?
Ông
Nguyễn Cao Kỳ có lần đã phải xin lỗi vì nhái giọng Quảng tại một cuộc họp báo
khi hỏi các nhà báo rằng báo chí có còn “théc méc” gì nữa không...
Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc, cũng có lần tự thú nhận trên một trang blog của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ là ông không thích cái giọng Quảng của ông, và ông nói thẳng tiếng Việt giọng Quảng không đúng, nhất là các nguyên âm a, ă và o.
Giọng Quảng rất riêng trong hệ thống giọng nói người Việt. Trước 1975, khi người Huế chưa di dân trên diện rộng vào Sài gòn hay các tỉnh thành Nam Bộ, dân Nam Bộ có nhiều người nói là dân nước Huế, có nghĩa là có tiếng nói riêng họ nghe không được. Nếu thế thì cũng có một nước Quảng nữa đấy. Cái riêng tây đó là lối phát âm lệch những nguyên âm hay những nguyên âm vần ghép.
Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc, cũng có lần tự thú nhận trên một trang blog của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ là ông không thích cái giọng Quảng của ông, và ông nói thẳng tiếng Việt giọng Quảng không đúng, nhất là các nguyên âm a, ă và o.
Giọng Quảng rất riêng trong hệ thống giọng nói người Việt. Trước 1975, khi người Huế chưa di dân trên diện rộng vào Sài gòn hay các tỉnh thành Nam Bộ, dân Nam Bộ có nhiều người nói là dân nước Huế, có nghĩa là có tiếng nói riêng họ nghe không được. Nếu thế thì cũng có một nước Quảng nữa đấy. Cái riêng tây đó là lối phát âm lệch những nguyên âm hay những nguyên âm vần ghép.
Giọng Quảng phân biệt một cách rõ
ràng giữa âm TR và CH, S và X, D và V, R và G... Nhưng âm giữa và âm cuối,
người Quảng thường phát âm chệch. ( Nói trật giọng chuẩn tiếng Việt mà được
gọi là đúng giọng Quảng vì họ có chuẩn riêng)
Âm phổ thông (toàn dân)
|
Âm địa phương
|
Lỗi nhầm lẫn vần hoặc phát âm lệch
chuẩn( đọc trại âm )
|
bao gạo
|
bô gộ
|
Vần ao với ô
|
gặt lúa
|
gẹt lúa
|
Vần ăt - et
|
chim sẻ
|
chiêm xẻ
|
Âm
s - x im-iêm
|
chích choè
|
chích chè
|
Vần oe - e
|
bài toán
|
bài tán
|
Vần oan - an
|
văng ra xa
|
văng roa xoa/ dăng roa xoa
|
Vần a - oa
|
bi luỵ
|
bi lị
|
Vần uy - i
|
con cừu
|
con cùi
|
Vần ưu - ui
|
chắc chắn
|
chét chén
|
Vần ăc - et, ăn - en
|
tên tuổi
|
tên tủi
|
Vần uôi - ui
|
chai rượu
|
chai rụi
|
Vần ươu - ui
|
thỉnh thoảng
|
thỉnh thảng
|
Vần oang - an
|
vô duyên
|
dzô diên
|
Vần uyên - iên
|
mùa xuân
|
mùa xưng
|
Vần uân - ưng
|
xe đạp
|
xe độp
|
Vần ap - ôp
|
Quảng Nam
|
Quoảng Nôm
|
Vần ang - oang, am - ôm
|
cái thuổng
|
cái xuổng
|
Âm th – x
|
cái xẻng
|
cái xảng
|
Vần eng - ang
|
hỏi
|
hủa
|
Vần oi - ua
|
lâm thâm
|
lâm dâm
|
Âm
th - d
|
( trích “vài thổ âm, thổ ngữ Quảng Nam”)(2)
Vô Quảng Nam thời gian dài, nói
chuyện với nhiều người tôi nhận ra là những chữ tưởng chừng như là phương ngữ
của riêng người Huế, thật ra người Quảng cũng nói y chang. Cũng là một gốc
những người di dân khai hoang lập ấp từ Thanh, Nghệ, Tỉnh thời vua Lê, chúa Nguyễn, người
dân miền này đi đến xứ khác làm ăn sinh sống đem theo cả phương ngữ của mình
dần dần người ở đó nghe quen tai và dùng quen miệng những từ đó thành ra
không còn riêng biệt nữa. Đó là sự giao thoa, pha trộn phương ngữ trong
tiếng Việt.
Bài
này không có mục đích đi sâu vào việc nghiên cứu ngôn ngữ học. Điều đó vượt quá
xa tầm hiểu biết của người viết. Tôi chỉ ghi nhận. Dưới đây là một số từ ngữ
người Quảng nói giống người Huế. Nghe giọng thì khác mà lối nói, chữ nghĩa quen
tai nên mấy năm trời giọng nói thấm dần vào tôi như mưa lâu thấm đất và tôi cảm
thấy gần gũi với giọng nói này .
Khi
đặt câu hỏi người Quảng cũng như người Huế thường dùng từ ngữ: ri (như thế
này), rứa (vậy, thế), răng (sao), mô (đâu), hỉ (hả) v.v...; khi nghe thế người kia
trả lời: nớ (kia), tê (kia), ni (đây), trển (trên), chừ (bây giờ), chi (gì) ,
nì ( này)v.v...
“Tui” là tôi, "Tau" là "tao",
"chưn" là chân; "dị òm" là mắc cỡ, mắc cỡ lắm;
"ưng" là thương; "nhớ hung" là rất nhớ, nhớ lắm;; "xí
nữa" là chút nữa; "y nguy" là y nguyên; "răng" là sao,
làm sao..."không reng (răng)" là không sao.
Khách tới nhà, chó xồ ra sủa inh ỏi, nhe răng như muốn táp khách
mà chủ nhà tỉnh rụi"- Chó sủa thôi chớ không reng mô". Nhe cả hàm
răng nhọn hoắt mà nói chó không răng. Núa chi lọa rứa ?
Người
Huế cũng nói như rứa, có khác chi mô!
"gò
gái" “ cua gái” là tán tỉnh con gái", "hú hí" là nhỏ to với
nhau; "in" là giống nhau như đúc; “lợt” là nhạt, "lợt nhớt"
là quá nhạt; "rượng" là "ngứa nghề" ham chơi theo trai, gái;
"sít rịt" là sít với nhau không hở; "trịt" là tẹt "- Cái
mũi trịt là cái mũi tẹt, thấp", “trịt mũi” lại là nghẹt mũi;"ngẳng"
để chỉ sự nghịch ngợm, "kỉnh" là biếu, "lia" là ném, là
vứt. "làm phách" là lên mặt, phách lối, kiêu căng, kiêu ngạo;
"yểu xìu" là quá yếu; "tổ chảng" là to lớn,"mập
ú" là mập quá cỡ; trái cây mua về, chưa chín, người ta bỏ vào trong hũ
gạo, đợi chín thì gọi là "giú"; "cái ảng" là cái lu ,"giả
đò" là "giả vờ", tương tự "làm bộ làm tịch". “Bổ” là té. "vịn"
là "dựa vào","cụi" là tủ đựng thức ăn, đặt dưới bếp ,"lủm"
là từ chỉ hành động bốc một vật gì đó bỏ vào trong miệng; "kiệt" là
hẻm, ngõ; "kiết" là keo kiệt; "đầu dầu" là đầu trần cò lẽ
là vì hồi trước người ta chải tóc bằng dầu brillantine nhìn đầu tóc phủ một lớp
dầu “láng xà coóng, ruồi đậu lên là bị trợt chân!!” "ướt nhẹp" là ướt
đẩm, ướt dầm..., "dúng" là giống; "mướt rượt" là rất mượt
mà, hết chỗ chê."trơn lu" là rất trơn, "biểu"
là bảo; "phỉnh" là dụ dỗ, gạ gẫm; "ngọt xớt" là rất ngọt.
“một chặp” là một lát…
Có
vài chữ nghe rất riêng giọng Quảng và lạ tai: "thọa"
là cái hộc tủ; "thụng" là túi, "trã" tương tự như cái chảo,
làm bằng đất, dùng để kho cá; "hục" là "hố" ,"ở
dổng" là ở truồng , "dịt" là dệt , “ủm" là thu hết về cho
mình, như để chỉ hành động ôm em bé vào lòng mình làm cho bé ấm áp, người ta
nói: "Ủm em", "nói xanh xảnh" là nói hỗn, thiếu lễ phép.
"hẹp tré" là hơi hẹp, "nói lung" là nói giỡn; "gướm"
là "gớm"…
*
*
Năm ngoái, tôi nghe có bộ đĩa Duyên kiếp gồm hai CD.
Ở CD 1, các ca khúc được hát theo lối pha trộn giữa nét bi lụy rất quen thuộc của dòng bolero cùng cách hát thính phòng, đậm chất Bắc của giọng nữ cao Ánh Tuyết.
CD 2, được Ánh Tuyết gọi là "phiên bản đặc biệt" dành tặng khán giả, nhất là cho những người con sinh ra từ xứ Quảng. Mười bài hát có nhan đề:
Ở CD 1, các ca khúc được hát theo lối pha trộn giữa nét bi lụy rất quen thuộc của dòng bolero cùng cách hát thính phòng, đậm chất Bắc của giọng nữ cao Ánh Tuyết.
CD 2, được Ánh Tuyết gọi là "phiên bản đặc biệt" dành tặng khán giả, nhất là cho những người con sinh ra từ xứ Quảng. Mười bài hát có nhan đề:
Chiều Cuối Tuần
Chuyến Tàu Hoàng Hôn
Đừng Nói Xa Nhau
Duyên Kiếp
Em Chờ Anh Trở Lại
Em Về Kẻo Trời Mưa
Mưa Chiều Kỉ Niệm
Mưa Rừng
Nỗi Buồn Hoa Phượng
Tình Bơ Vơ
Chuyến Tàu Hoàng Hôn
Đừng Nói Xa Nhau
Duyên Kiếp
Em Chờ Anh Trở Lại
Em Về Kẻo Trời Mưa
Mưa Chiều Kỉ Niệm
Mưa Rừng
Nỗi Buồn Hoa Phượng
Tình Bơ Vơ
Có lẽ Ánh Tuyết cũng dành tặng phiên bản này cho tôi. Tôi
nghe đi nghe lại nhiều lần những bài hát quen. Thập niên 1960, những bài hát
điệu bolero này, giới sinh viên chúng tôi ít người nghe và ít người thích vì
chất bi lụy ướt át của nó. Những bài hát đó được xếp vào loại nhạc” sến”. Có
cảm giác nghe loại nhạc này mình cũng “sến” luôn!
Sau 75, thỉnh thoảng nghe lại đâu đó những bản nhạc này, con
người mình dường như có phần bớt khắc khe, lòng mình cũng dễ dãi hơn nên nghe những
bản nhạc “ sến” tôi thấy lời chơn chất, thấy nhạc cũng hay hay.
Đến khi nghe CD giọng Quảng của Ánh Tuyết, tôi thật sự xúc
động, tưởng như mình gặp lại người quen mấy mươi năm cách biệt. Nghe đi nghe
lại nhiều lần, tôi lắng nghe để phân biệt chữ nào là giọng Quảng và cười một
mình như đang gặm nhấm niềm vui.
Ví dụ trong bài “ Duyên
kiếp”
Em ơi nếu mợng khơng
thành lồm reng, (mộng không, làm
răng)
Non cô đất rợng biết mô mòa tìm. (cao, rộng,
mô mà)
Đường đời mịch mờ doạng nẽo dề mô,
( mịt, vạn, về mô)
Mang chờ diên kíp đưa
lối bét cầu. ( mong, duyên
kiếp, bắt)
Em ơi, nhéc lợ
phút xưa gẹp nha, (nhắc lại,
gặp nhau)
Trên đê déng ngừi
lúc ton chợ chiều, (vắng người,
tan)
Ngạ ngùng mỗi lần anh tới
lồm quen,
(ngại, làm)
Móa em ửng hờng dì
quá thẹn thùng…
(má, hồng vì)
Trong bài “Đừng nói
xa nhau”:
Đừng núa xoa nha
cho tâm hồn đa khổ, (nói xa nhau, đau)
Đừng núa xoa nha
cho mét lệ hoen mờ. (nói xa nhau, mắt)
Lời thiết thoa qua
tâm tư tràn mộng tràn mơ,
(tha, tròn, tròn)
Vết tình khéc lên
môi đưa mấy tủi yêu dẫn chờ… ( khắc, tuổi, vẫn)
Mười bài hát được hát bằng giọng Quảng như thế: (dốm-dám);(làng-lòng);(phơ-phai);(báng-bóng);(boạc-bạc);(ưa-ai);(xô xiến-xao xuyến);(ta đon ta-tay đan tay);(sô
đành-sao đành);(mon moác- man
mác);(ton dỡ-tan vỡ)…
Chú thích:
( chữ in nghiêng là giọng Quảng, chữ in đứng là lời bài hát).
Nghe thì giống như chế diễu nhưng vì ca sĩ Ánh Tuyết là
người Quảng đem tâm tình trân trọng của mình để hát nên hàm chứa cái tình tự
quê hương trong lời bài hát đã thay đổi. Qua đó, người Quảng đem tiếng lòng mình nồi
với giọng nói thân thương của quê nhà truyền thừa từ thuở cha sanh mẹ đẻ theo
người Quảng đến tận bây giờ nên người Quảng nghe là thích. Không biết sao tôi
cũng thích mấy bài hát giọng Quảng này vô cùng. Có một mạch nguồn nào đó chảy
âm ỉ nay sống dậy trong tôi?
Người Quảng biết rất rõ là họ nói sai những âm nào so với
lối phát âm chuẩn của tiếng Việt nhưng họ cứ nói như thế từ đời này qua đời
khác. Họ có chuẩn giọng Quảng mà họ tự hào. Âu đó cũng là một tính cách đặc
trưng của người Quảng?
Có lẽ họ cũng suy nghĩ như anh chàng đạo diễn người Huế tránh mưa ngoài hiên nhà tôi chiều hè năm 1984:
“Họ nghe không được thì thôi. Kệ. Mình cứ nói giọng Quảng của mình”.
* *
Tháng 9 năm 2013.
Chúng tôi lên Đà Lạt một tuần nhân kỷ niệm 40
năm ngày cưới. Tuần trăng mật hồi xưa của chúng tôi cũng ở Đà Lạt vào tháng 9
năm 1973.
Chuyến xe khách giường nằm của hảng
Thành Bưởi từ Đà Lạt về Sài gòn.
Hai vợ chồng tôi nằm ghế số 4 và số
5. Sau lưng tôi là mấy người đàn bà đứng tuổi. Họ nói chuyện với nhau rổn rảng.
Bà xã tôi nói: “ Mấy bà này người ở mô mà nói giọng gì em nghe không được?” Tôi
đùa: “ Mấy bà này là người ngoại quốc. Nước Quảng Nam, Quảng Ngãi gì đó”.
Trong câu chuyện của họ tôi nghe họ
nhắc đến Đại Lộc, Duy Xuyên. Họ nói chuyện xưa chuyện nay, chuyện nhà chuyện
cửa, chuyện gia đình, con cái, chuyện người này người nọ…Không biết sao mà chì
có bốn bà người Quảng và một bà người Huế mà họ nói chuyện với nhau không dứt
suốt cả chặng đường ba trăm cây số?! Tôi cười, nói với bà xã tôi:
“ Trên xe thiếu một con vịt”
Bà xã tôi không hiểu. Tôi nói thêm:
“ Chỉ còn thiếu một con vịt là thành
ra một cái chợ”.
Tuổi của họ, nếu họ ở Đại Lộc thì không chừng,
biết đâu họ là học trò của tôi.
Trong giấc ngủ chập chờn, qua giọng
Quảng của họ, tôi như trở về với trường xưa “ một thời để yêu”,
có thầy cô thân quý và có học trò
thân yêu. Có một thứ để yêu thương nữa: Giọng Quảng.
Giọng Quảng- Gần thương, xa nhớ.
Tiếng lòng tôi.
Sài Gòn, 01/6/2014.
Lê Duy Đoàn.
Chú thích:
1. Trích “ Ở một
nơi không có xe lam” của Nguyễn Nhật Ánh.
2. Bài viết này có trích những từ trong bài “Vài thổ âm, thổ ngữ của người Quảng Nam” đăng trên internet.
Lời thêm: Nhiều người Quảng Nam mong có ai đó chịu bỏ
công ra làm một quyển Từ điển tiếng Quảng Nam giống như một số địa phương khác
đã có người làm Từ điển tiếng địa phương của họ. Trần Hữu Thung, Thái Kim Đỉnh
đã làm Từ điển tiếng Nghệ (NXB Nghệ An, 1998), Bùi Minh Đức làm Từ điển tiếng
Huế (NXB Văn Học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học XB năm 2004), Nguyễn Văn Ái
chủ biên Phương ngữ Nam bộ (NXB TP. SG, 1994)…