XĂM
HƯỜNG
MỘT TRÒ
CHƠI TAO NHÃ VÀ VUI VẺ TRONG NGÀY TẾT
CỦA NGƯỜI DÂN XỨ HUẾ VÀ CÁC XỨ CẬN
HUẾ
Sáng mồng 7 tháng giêng năm Đinh Hợi, tôi đang
chiên mấy miếng bánh tét thì nghe vợ tôi gọi với xuống từ lầu 1:” anh
Đoàn ơi ! Xăm hường trong chương trình VTV1 của truyền hình VN”. Tôi vội
bật TV, vừa kịp lúc phóng viên đang phỏng vấn 1 người dân sống ở phố cổ
Hội An, người này bảo rằng trò chơi Xăm Hường là một trò chơi của người
Tàu, được du nhập vào VN do người Minh Hương (Việt gốc Tàu) từ rất lâu.
Cả phóng viên lẫn người được phỏng vấn đều sai, với một phát biểu trên
phương tiện truyền thông dễ gây ra ngộ nhận. Phát biểu đó mang tính võ
đoán và thiếu căn cứ.
Theo tôi, trò chơi Xăm Hường được bày ra để làm
trò tiêu khiển trong nội cung Triều Nguyễn. Sau đó, các quan lại và
những người trong Nguyễn Phước Tộc, mang trò chơi này ra ngoài cung và
trò chơi trở nên phổ biến từ thành thị đến nông thôn Huế và Thừa Thiên.
Người dân các xứ Quảng (Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng
Ngãi) cũng có những gia đình chơi trò Xăm Hường nhưng rất ít. Những gia
đình này có thể là người gốc Huế hoặc có dây mơ rễ má gì với người Huế.
Hoặc giả, trong dòng tộc có người làm quan trong triều đình Huế, hoặc
giả họ là bà con dâu rễ với người Huế.
Vào trong Nam hay ngoài Bắc, trò chơi này hoàn toàn
lạ lẫm. Như vậy, trò chơi Xăm Hường ví như vết dầu loang, trò chơi từ
cung đình Huế lan ra khắp Huế và Thừa Thiên rồi tỏa ra các vùng xứ
Quảng, rồi thôi. Những vùng xa như Bình Định, Phú Yên trở vào đến Cà
Mau, từ Quảng Bình trở ra Bắc hầu như chẳng ai biết trò chơi này.
Trở lại bài phỏng vấn về Xăm Hường trên VTV1, bảo
rằng Xăm Hường có nguồn gốc từ Trung Quốc là không có căn cứ vì nếu vậy
trò chơi phải để lại một dấu vết nào đó trong các tác phẩm văn học.
Chẳng có dấu vết nào.
Nếu người Minh Hương đem trò chơi này du nhập vào
Việt Nam thì không cứ gì có người Minh Hương ở Hội An chơi trò này mà
người Minh Hương ở Chợ Lớn là một cộng đồng người Hoa rất rộng lớn lại
không biết trò chơi này? Dòng họ Mạc Thiên Tích lập nghiệp ở Hà Tiên ắc
cũng phải đem trò chơi thú vị này du nhập chứ sao lại không nhỉ?
Để chứng minh thêm trò chơi Xăm Hường phát sinh từ
nội cung triều Nguyễn, tôi dẫn ra đây 2 chứng cứ:
1. Nếu phát sinh từ các triều vua trước ở Thăng
Long, thì với mức thẩm thấu của trò chơi này, ít nhất là người ở
Đông Đô Hà Nội phải có người biết.
2. Tên gọi trò chơi là tên gọi thuần Việt “XĂM
HƯỜNG”. Tên gọi này chỉ ra việc từ chữ Hồng nói trại ra thành chữ
Hường. Đây là lối nói tránh những từ húy kỵ rất phổ biến ở Huế như
chữ cửa Đông Hoa nói trại thành cửa Đông Ba vì chữ Hoa là chữ húy
kỵ đối với vua. Chắc chắn là những người ở Hội An không thể nói tên
gọi của trò chơi này theo một cách gọi của người Tàu (ví dụ như Đoạt
Khôi Nguyên Đồng Khánh chi cục chẳng hạn ) mà chỉ có thể gọi một
cách thuần Việt và Huế đặc là Xăm Hường.
3. Trò chơi Xăm Hường chắc là được bày ra sau đời
vua Minh Mạng. Để thiết lập một nền quân chủ kỷ cương, ông vua văn
võ song toàn này lập ra những bài thiệu 4 câu 5 chữ để phân biệt
dòng chính và dòng thứ trong Nguyễn Phước Tộc. Mà dòng đích (chính
hệ) là:
Miên Hồng Ưng Bửu Vĩnh
Bảo Quý Định Long Trường
Hiền Năng Kham Kế Thuật
Thế Thoại Quốc Gia Xương
Những dòng thứ (bàng hệ) có những bài
thiệu khác.
Như vậy gọi là Hường để
tránh chữ Hồng là chữ phạm húy.
* * *
Nhân đây tôi xin trình bày thêm về trò chơi Xăm
Hường, một trò chơi phù hợp với niềm hân hoan của con người trong 3 ngày
tết, phù hợp với việc tạo một không khí ấm cúng, đầy tình thương yêu gắn
bó các thành viên trong gia đình,bằng hữu từ già tới trẻ ai chơi cũng
được, cũng vui, thậm chí người không biết luật vẫn ngồi vào chơi được
như thường.
Người ta thường chơi Xăm Hường trong mấy ngày tết,
có kéo dài lắm thì cũng đến hết mùng thì thôi. Đây là một trò chơi tao
nhã vì không ai dùng Xăm Hường để sát phạt. Hầu như không có tiếng cãi
cọ, cay cú trong lúc chơi Xăm Hường, chỉ có tiếng cười vui rộn rã hòa
với tiếng leng keng vui tai của nạm hột súc sắc xoay tròn trong tô kiểu
cùng tiếng lách cách của những thẻ hường va chạm nhau.
Số lượng người tham dự trò chơi này có thể lên đến
12 người hay nhiều hơn nữa nếu chúng ta biết cách chơi. Do đó, Xăm Hường
rất phù hợp với không khí gia đình chung vui trong ba ngày tết.
Chẳng ai chơi Xăm Hường mà tính chuyện gian lận vì
không ai có thể điều khiển được một lúc 6 hột súc sắc. Tính minh bạch
của trò chơi rất cao, 6 hột bày ra rõ ràng trước bao nhiêu cặp mắt nên
người không biết tí gì về Xăm Hường cũng có thể ngồi vào chơi thoải mái,
chỉ cần thả hột vào tô thì có người đọc và lượm thẻ giúp. Chỉ qua vài ba
ván là biết được luật chơi liền.
Nhiều người tin rằng chơi Xăm Hường như một cách
bói quẻ tốt xấu đầu năm. Trong cuộc chơi, ai lấy được Trạng anh (Trạng
Nguyên), Trạng em (Bảng Nhãn, Thám Hoa) nhiều lần thì chắc cả năm danh
tài đắc lợi, công việc hanh thông, thăng tiến. Trước ăn sau thua thì đầu
năm tốt, nữa năm về sau xấu và nếu trước thua sau ăn thì ngược lại tiền
hung hậu cát.
Nếu bị cướp trạng thì coi chừng những điều xui rủi,
công việc gãy đỗ giữa chừng.
Hên nhất là ngũ hường đoạt tam khôi, cướp một lúc 3
ông trạng chắc là trong năm có cơ hội hoạnh phát tài lộc. Khó nhất là
lục phú, tức là 6 hột súc sắc cùng hiện ra một mặt giống nhau. Vì là cực
kỳ khó nên người ta tin rằng điều quá tốt hiển hiện thì có sự việc quá
xấu tiềm ẩn.
Bàn về trò chơi Xăm Hường:
Có lẽ nhiều người chơi Xăm Hường thắc mắc vì sao
người bày ra trò chơi này lại lấy mặt tứ (bốn) làm chuẩn của trò chơi,
trong khi mặt nhất (một) cũng đẹp và cũng có màu đỏ.
Theo tôi, trò chơi mang tinh thần khuyến học. Vào
thời quân chủ, người ta học hành theo lối từ chương với mục đích kiếm
một chỗ trong chốn quan trường. Muốn ra làm quan thì người học phải qua
các kỳ thi Hương để đổ Tú Tài, kỳ thi Hội để đổ Cử Nhân và kỳ thi Đình
để đậu đạt Tiến Sĩ.
Trong trò chơi Xăm Hường cũng có các cấp đỗ đạt như
vậy mà phần thưởng cho người chơi là những thẻ xăm hường, trong đó cao
nhất là Trạng Nguyên.
Vì là chốn quan trường nên cung quan là chủ đạo của
trò chơi.
Trong quẻ Dịch có 6 hào từ sơ hào đến hào thượng.
Sáu mặt của hột súc sắc (nhất - nhì - tam - tứ - ngũ - lục) tương ứng
với 6 hào. Trong 6 hào của quẻ dịch thì hào 6 là ngôi trời, hào 5 là
ngôi vua (cửu ngũ) và hào 4 là ngôi quan nên người bày ra trò chơi này
lấy mặt tứ làm chủ đạo cho trò chơi. Mặt tứ có màu đỏ vừa vuông vắn, vừa
đẹp lại vừa có ý nghĩa được gọi là Hường.
Người bày ra trò chơi dựa trên tính toán xác suất
và tần suất xuất hiện của các mặt súc sắc để định ra luật lệ trò chơi.
Càng khó xuất hiện (tức là xác suất thấp, tần suất xuất hiện ít) thì mức
thưởng càng cao.
Từ đó hình thành ra các loại thẻ xăm hường. Bộ thẻ
Xăm Hường được lập theo thứ tự quẻ Dịch: Thái Cực (1), Lưỡng Nghi (2),
Tứ Tượng (4), Bát Quái (8) từ đó tăng dần lên theo cấp số nhân mà công
bội là 2. Nếu tính đơn vị là 1 thẻ nhất hường (giá trị là 1) thì tổng
giá trị của cả bộ Xăm Hường là 192 đơn vị, chia ra làm 6 loại thẻ, mỗi
loại thẻ trị giá 32 đơn vị gọi là 1 Trạng.
Tên gọi và giá trị của các loại thẻ Xăm Hường:
TT
|
Tên gọi
|
Giá trị
|
Số lượng (thẻ)
|
1
|
Thẻ Trạng Nguyên (dân gian gọi là Trạng
anh)
|
32
|
1
|
2
|
Thẻ Bảng Nhãn, Thám Hoa (Trạng em)
|
16
|
2
|
3
|
Thẻ Tam Hường
|
8
|
4
|
4
|
Thẻ Tứ Tự (hay Tứ Tấn)
|
4
|
8
|
5
|
Thẻ Nhị Hường
|
2
|
16
|
6
|
Thẻ Nhất Hường
|
1
|
32
|
Tổng mỗi loại thẻ có giá trị 32 đơn vị gọi là 1
trạng x 6 = 192 đơn vị, người ta gọi là 6 Trạng.
Thẻ Tam Hường còn gọi là thẻ Tam Hường Hội. Còn
nhất hường, nhì hường tương đương với cấp đỗ đạt là Tú Tài, Cử Nhân thì
tôi chi nghe nói mà thôi.
Như vậy chỉ với 1 bộ 6 hột súc sắc và một bộ thẻ
như trên với 1 cái tô kiểu tiếng kêu thanh tao là ta đã sẵn sàng cho một
cuộc chơi vui thú.
Những qui ước trong trò chơi Xăm Hường:
Người chơi được nhận thẻ xăm theo những gì xuất
hiện trong 1 lần đổ hột vào tô.
1. Nhất Hường (1 mặt tứ) : lấy 1 thẻ một.
2. Nhị Hường (2 mặt tứ) : lấy 1 thẻ 2 hoặc 2 thẻ
1 khi không còn thẻ 2.
3. Tứ Tự (hay còn gọi là Tứ Tấn): khi có 4 mặt
giống nhau trừ mặt Hường (mặt bốn) thì lấy 1 thẻ 4. Nếu ngoài 4 mặt
giống nhau đó có thêm 1 hường hay 2 hường thì lấy thêm 1 thẻ 1 hoặc
1 thẻ 2.
4. Tam Hường (3 mặt tứ): lấy thẻ 8. Nếu Tam Hường đi với 3 hột
súc sắc còn lại cùng 1 mặt (ví dụ 3 tứ, 3 tam) thì gọi là Phân Song Tam
Hường, lấy được 1 Trạng em và 1 thẻ Tam Hường (trị giá 24 thẻ)
5. Trạng em: có nhiều trường hợp xuất hiện được
lấy Trạng Em (tức là Bảng Nhãn, Thám Hoa)
a. Suốt: 6 hột theo thứ tự nhất - nhị - tam -
tứ - ngũ - lục.
b. Phân Song: là chia hai, 3 hột mặt này, 3
hột mặt kia (ví dụ 3 tam, 3 nhị)
c. Thượng Mã, Hạ Mã: theo chữ là “Thượng mã
đề kim, hạ mã đề ngân” trong tích Tào Tháo đãi ngộ Quan Công
trong truyện Tam Quốc Chí.
-
Thượng mã là 3 đôi: 2 nhất, 2 nhị, 2 tam
-
Hạ mã là 3 đôi: 2 tứ, 2 ngũ, 2 lục
d. Tứ Tự Cáp: Cáp nghĩa là ghép với nhau. Tứ
tự là 4 mặt giống nhau, hai hột còn lại mà tổng số bằng với mặt
tứ tự thì gọi là Tứ Tự Cáp.
Ví dụ: Tứ tự là 4 mặt ngũ, 2 hột còn lại có thể là
3 và 2 hoặc là 4 và 1 thì đều gọi là tứ tự cáp.
Có 2 trường hợp đặc biệt của tứ tự cáp:
-
4 mặt nhất và 2 mặt ngũ, lục thành ra 11 là tứ tự cáp của mặt
nhất.
-
4 mặt nhị và 2 mặt nhất hoặc là 2 mặt lục cũng là cáp.
Bốn trường hợp trên, người chơi được quyền lấy thẻ
trạng Em. Khi hết thẻ trạng Em giữa làng thì lấy tương đương giá trị 16
thẻ.
6. Trạng Anh (Tức là Trạng Nguyên) có 2 trường
hợp:
a. Trạng Tứ hường (còn gọi là trạng Đỏ) bao gồm 4
mặt hường. 2 hột súc sắc còn lại cộng với nhau thành ra tuổi của
Trạng.
Ví dụ: 4 hường và 2 mặt
còn lại là 3 và 5 thì gọi là trạng 8 tuổi.
Khi một người đã lấy được
trạng 8 tuổi, mà có người khác đổ hột súc sắc ra trạng Anh 9 tuổi trở
lên thì người đó được lấy trạng anh từ tay người kia gọi là cướp trạng.
Ngoài tuổi của trạng xác
định như trên còn có 2 trường hợp đặc biệt là Trạng cáp xiên và Trạng
cáp chính.
Trạng cáp xiên là 4 tứ, 1
tam, 1 nhất.;
Trạng cáp chính là 4 tứ,
2 nhị.
Trạng cáp xiên cướp trạng
có tuổi. Trạng cáp chính cướp được cả trạng cáp xiên.
b. Trạng ngũ tử (Trạng anh Đen): bao gồm 5 mặt
giống nhau trừ hường. Hột xúc sắc còn lại là số tuổi.
Ví dụ: 5 mặt ngũ một mặt
nhị thì gọi là Trạng ngũ tử 2 tuổi. Nếu người khác cũng ra ngũ tử mà
tuổi lớn hơn thì cướp trạng.
Trạng ngũ tử có một
trường hợp đặc biệt là ngũ tử đại ấn tức là 5 hột cùng một mặt, hột còn
lại là mặt tứ. Trạng ngũ tử đại ấn cướp trạng ngũ tử có tuổi.
Có một quy định đặc biệt
là loại trạng nào chỉ được cướp trạng loại đó. Trạng đỏ không được cướp
trạng ngũ tử và ngược lại.
Trường hợp đổ ra trạng mà
không cướp được trạng thì người ấy sẽ lấy 32 thẻ giữa làng.
Nếu người có trạng mà đổ
ra trạng nhiều tuổi hơn thì chỉ được tăng tuổi trạng chớ không được
phép lấy thêm thẻ giữa làng.
7. Ngũ hường đoạt tam khôi: Tức là 5 mặt hường
thì được lấy cả 3 trạng (1 trạng anh và 2 trạng em) dù trạng đã nằm
trong tay người khác. Hột súc sắc còn lại là số tuổi của ngũ hường.
8. Lục phú: Có 2 trường hợp:
a. Lục phú đen: 6 mặt giống nhau trừ hường.
Khi có lục phú thì không
kể ai có bao nhiêu thẻ, tất cả người chơi đều đồng loạt chung cho người
lục phú giá trị theo quy định (nếu 6 hoặc 7 người chơi, mỗi người phải
chung 1 trạng).
b. Lục phú hường: 6 mặt tứ
Tất cả đều chung cho
người có lục hường trị giá gấp đôi quy định (nếu chơi 6 hoặc 7 người thi
1 người phải chung 2 trạng).
Trong trường hợp, người
chơi đổ hột văng ra ngoài thì xem như bất hợp lệ và phải bị phạt một thẻ
hường thêm vào trạng.
Trường hợp người có trạng
đổ hột những lần đầu không có hường thì mỗi lần bị phạt 1 thẻ thêm vào
trạng.
Số lượng người chơi và
cách tính số lượng thẻ của mỗi người chơi:
1. Từ 2 đến 7 người:
- Hai người: mỗi người
phải đủ 32 x 3 = 96 thẻ.
- Ba người: mỗi người
phải đủ 32 x 2 = 64 thẻ.
- Bốn người: mỗi người
phải đủ 32 x 1,5 = 48 thẻ.
- Năm người: Có 2 cách:
+ Nếu chia đều thì
bỏ bớt 2 thẻ, còn 190 thẻ, mỗi người phải đủ 38 thẻ.
+ Bán trạng: người
có trạng anh được quyền bán trạng và những thẻ khác trên tay mình, không
giữ lại thẻ nào. Như vậy, mỗi người khác phải đủ 48 thẻ.
- Sáu người: mỗi người phải đủ 32 thẻ.
- Bảy người: người nào có trạng anh sẽ bán hết thẻ trên tay mình
cho người nào còn thiểu (mỗi người phải đủ 32 thẻ).
2. Bắt đầu 8 người chơi
trở lên thì cách tính có phần phức tạp hơn. Số người chơi có thể nhiều
nhưng nên chơi tối đa 12 người.
Từ 8 đến 12 người chơi,
chúng ta áp dụng lối bán trạng 2 lần.
Nhiều người nghĩ rằng,
bán trạng 2 lần là người có trạng được bán gấp đôi giá trị của thẻ trạng
(32 x 2 = 64)
Thật sự, nếu chơi theo
cách đó thì chỉ có 1 người vui vì ăn nhiều mà những người khác sẽ buồn
vì ai cũng thua cả.
Theo tôi đã áp dụng và
cách bán trạng 2 lần này hay hơn.
Bán trạng hai lần có
nghĩa là cả trạng anh và 2 trạng em đều được bán.
Người có trạng em được
xem như đủ thẻ, số còn lại mà người có trạng em lấy được thì được quyền
bán.
Sau khi người có thẻ
trạng em bán xong, thì người có trạng anh sẽ ăn hết phần còn lại
Số lượng thẻ cần có của
những người chơi không có trạng giảm dần khi số người chơi tăng lên:
8 người chơi, mỗi người
không có trạng chịu 32 thẻ
9
28 thẻ
10
25 thẻ
11
22 thẻ
12
20 thẻ
Số lượng thẻ này tùy theo
sự giao ước của những người chơi. Con số trên đây chỉ là con số để tham
khảo mà thôi.
Một số cải biến để trò
chơi thêm hấp dẫn :
1. Đấu thẻ rời: Khi còn lại chỉ trạng anh, người
ta tạo thêm hào hứng bằng cách đấu 1, 2 thẻ hường. Ai nhiều hường
hơn sẽ ăn hết. Lối đấu này chỉ căn cứ theo mặt hường.
2. Hạ giá trạng: Khi đã hết thẻ nhỏ mà đổ nhiều
vòng không lên trạng, để cho nhanh có thể hạ giá trạng. Thông thường
là phân song tam hường, có thể là trạng em trừ suốt (Có nghĩa là
phân song, tứ tự cáp, thượng hạ mã)
3. Cướp Trạng Em: Khi có 8 người chơi trở lên,
người chơi chấp nhận bán trạng 2 lần thì giá trị của trạng em tăng
lên nhiều. Có thể chia ra 3 cấp để cướp trạng em.
Cấp I: Phân song tam
hường
Cấp II: Phân song, tứ tự
cáp, thượng mã, hạ mã
Cấp III: Suốt
Như vậy phân song tam hường có thể cướp trạng em
cấp II và III, cấp II có thể cướp trạng em của Suốt.
Người lấy trạng em trước thì bị cướp trước.
4. Không lấy thẻ: Người chơi có quyền không lấy
thẻ giữa làng vì không ai cấm 1 người từ chối quyền lợi mình được
hưởng. Như vậy người chơi có cơ hội cướp trạng nhiều hơn.
Bằng cách chơi mới lạ này
mà bạn bè Quốc Học 61-64 đã áp dụng trong buổi họp mặt đầu năm Đinh Hợi.
Nó tạo nên niềm vui vô kể.
Hầu như trò chơi nào cũng
có những biến thái thích hợp để tạo nên hào hứng và vui vẻ nhiều hơn. Do
đó chúng ta không nên câu nệ lề thói cũ mà thử áp dụng những cải biến
trong trò chơi xăm hường để trò chơi vui hơn, hấp dẫn hơn.
Chế tác thẻ Xăm Hường
Trong nội cung triều
Nguyễn và các gia đình quan lại trước đây, thẻ xăm hường có thể làm bằng
ngà voi. Sau này, thẻ xăm hường được làm bằng vật liệu khác dễ kiếm hơn.
Vật liệu có thể là sừng bò, sừng trâu trắng, xương, tre, gỗ để làm xăm.
Có thể in, vẽ hình trạng và ghi chữ Hán, cũng có thể ghi chữ số, miễn
sao có đủ thẻ lớn nhỏ để chơi.
Bộ thẻ xăm hường của tôi
được chế tác từ đũa nhựa melamine của Trung Quốc. Chỉ cần cắt dài ngắn
khác nhau ta có thẻ nhất hường, nhị hường, tứ tự. Ghép 2 thẻ tứ tự cho
dài hơn 1 tí ta có thẻ tam hường, ghép 3 thẻ dài hơn ta có trạng em, dài
hơn chút nữa ta có trạng anh. Dùng keo dán Super Glue
để gắn các thẻ đũa lại với nhau. Cách chế tác này dễ dàng, ai cũng làm
được vì đơn giản vô cùng mà âm thanh của thẻ va chạm nhau cũng thanh tao
“nghe ra tiếng sắt, tiếng vàng chen nhau” vui tai lắm lắm
.
Xăm hường là một trò chơi
mang đậm nét văn hoá đặc sắc. Trò chơi phổ biến rất rộng rãi trong xã
hội Huế và các vùng lân cận. Trò chơi vô cùng tao nhã và thân thiết.
Cứ mỗi lần Tết đến, được
nghe âm thanh các hột súc sắc đỗ dòn trong cái tô kiểu, lòng người tự
nhiên thấy rộn rã một không khí vui tươi, đầm ấm của một gia đình người
Huế đón xuân.
Mỗi gia đình người Việt
dù ở Việt Nam hay xa xứ nên kiếm mua hoặc tự làm một bộ xăm hường để gia
đình được quây quần vui vẽ trong ba ngày Tết với trò chơi tao nhã: XĂM
HƯỜNG
LÊ DUY ĐOÀN
Mồng 8/1/Đinh Hợi.