Ngày xưa thân ái.
Lê Duy Đoàn
( Kính gởi niềm kính yêu và biết ơn sâu
sắc đến các Thầy ,Cô các trường Tiểu học Vạn Xuân niên khóa 1952-1957 và trường
trung học Quốc Học niên khóa 1957-1964).
Tôi giới hạn thời gian của bài “những
ngày xưa thân ái” này trong khoảng đời đi học tiểu học Vạn Xuân và trung học
Quốc Học Huế vì không gian trường, thời gian tuổi và những tình cảm trong sáng
của bạn bè thời đó vẫn còn sâu ấn tượng trong lòng tôi cho đến tận bây giờ.
Thời kỳ học đại học tôi gọi là thời thân thương và thời đi dạy là thời thân
yêu. Nói chung thời nào cũng thân cả. Con người “tình cổm”mà !
Đây chỉ là một mảnh ghép
trong bức tranh mosaic toàn cảnh đa sắc của học sinh trường Quốc Học. Mỗi học
sinh có những câu chuyện riêng của mình, không ai giống ai. Những mảnh gợi nhớ
một thời hoang dại.Nếu ghép được từng mảnh của tất cả học sinh Quốc Học từ khi
mở trường cho đến bây giờ, chắc hẳn chúng ta sẽ có một bức panorama vô cùng
hoành tráng.
Những chuyện tôi kể sau đây có vẻ tản mạn và không theo thứ tự thời gian
vì đây là những chuyện góp nhặt cát đá trong bộ nhớ đã mòn của tôi. Năm mươi
mấy năm rồi còn gì! Ký ức về thời đi học vô lo và hồn nhiên bao giờ cũng là
những ký ức tốt đẹp và đáng nhớ trong đời mỗi người. Thế cho nên bạn bè thời
đó, dù cách biệt năm mươi năm bây chừ da đã mồi, tóc đã bạc mà gặp lại nhau thì
a thần phù vô nói chuyện rôm rả, vẫn kêu nhau mi tau cho sướng cái miệng và nhắc
lại chuyện xưa cùng nhau mài đủng quần trên ghế nhà trường, khi mô cũng thấy ấm
lòng, mặc cho bọn trẻ nói là mấy ông già gần xuống lổ răng mà nói chuyện với
nhau như con nít rứa. Được ôn lại, sống lại một thời trẻ dại thân thương là sướng
như được trầm mình trong giòng nước mát tuổi thơ vậy.
“Hằng năm, cứ vào cuối thu, lá ngoài
đường rụng nhiều, và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức
những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường.”….
“Tôi đi học” một đoản văn của nhà
văn Thanh Tịnh, trong sách giáo khoa là bài học thuộc lòng mà lứa học trò thế
hệ tôi nhớ như in vào tâm trí, ít nhất là đoạn mở đầu này. Những đứa bé được
cha mẹ đưa đến trường vào buổi khai giảng đầu đời mỗi đứa một tâm trạng nhưng
không phải đứa nào cũng nao nức. Có những đứa sợ đi học chết khiếp, níu chân
cha mẹ khóc inh ỏi như sắp bị roi vọt không bằng. Có đứa cười toe, nói tía lia
và tung tăng đền trường. Tôi thích học.
Ba mạ tôi rất chú trọng việc học
hành của con cái. Đứa con nào bất kể trai hay gái cũng được ba mạ tôi khuyên
bảo, nhắc nhủ, chăm sóc việc học hánh chu đáo vì ba mạ tôi biết đó là con đường
cho một tương lai rộng mở những cơ hội của mỗi người.
* *
Những năm đầu đời của tôi, từ cuối
năm 1945,có phong trào xóa nạn mù chữ và bình dân học vụ diễn ra rầm rộ khắp cả
nước. Đâu thì tôi không biết chứ trong làng An ninh thượng hạ, Trúc Lâm, Xuân
Hòa, Kim Long, các nơi đình chùa nhà dân rộng rãi đều được dùng làm nơi học xóa
mù chữ và các lớp bình dân học vụ. Ba tôi cũng đi làm giáo viên dạy những người
mù chữ trong làng.
Vận động người dân xóa mù chữ,
người ta bày ra nhiều hình thức nghĩ lại cũng hay. Để cho dễ nhớ mặt chữ người
ta đặt những câu văn vần, hồi nhỏ tí xíu nghe thế, đến nay tôi cũng còn nhớ:
"i, t (tờ), có móc cả hai.
i ngắn có chấm, t (tờ) dài có
ngang;
e, ê, l (lờ) cũng một loài.
ê đội nón chóp, l (lờ) dài thân
hơn;
o tròn như quả trứng gà.
ô thời đội mũ, ơ thời thêm
râu".
Tại các nơi nhiều người qua lại,
như các ngõ xóm, điếm canh, cổng đình, cổng làng, người ta treo nong, nia, mẹt, phên cót, trên viết các
chữ cái bằng vôi để ai đi qua cũng có dịp nhẩm, ôn các chữ đã
học.
Lại thêm hình thức chăng dây ngang đường hay ngang cổng chính vô chợ
Thông hay chợ Kim Long. Gọi nôm na là “ cổng sáng” dành cho người biết chữ, đọc
được chữ đi qua, nếu không đọc được chữ trên bảng thì đi ngõ hai bên gọi là “
cổng mù”. Nhiều người lớn tuổi cũng siêng học cho biết chữ để đi qua cổng chính
chứ đi vô chợ mà phải bước qua cổng mù thì xấu hỗ quá.
Có một câu hò ru em rất dễ thương được dân gian sáng tác trong thời điểm này:
Ai về chợ huyện Thanh Vân,
Hỏi thăm cô Tú đánh vần được chưa.
Đánh vần năm ngoái năm xưa,
Năm nay quên hết nên chưa biết gì.
* *
Có một câu hò ru em rất dễ thương được dân gian sáng tác trong thời điểm này:
Ai về chợ huyện Thanh Vân,
Hỏi thăm cô Tú đánh vần được chưa.
Đánh vần năm ngoái năm xưa,
Năm nay quên hết nên chưa biết gì.
* *
Khi còn ở ở trên xóm Đông An, làng
An ninh hạ, mới 4 tuổi, tôi đã được ba tôi cho đi học lớp vỡ lòng do anh Khóa ở
cùng xóm dạy. Cùng học những lớp vỡ lòng đó có những anh hơn tôi cả một con
giáp.
Năm 1951, về ờ phường Phú Thạnh,
tôi lại được học ở nhà giảng sau lưng chùa tư
Bác Thí quản tự. Lớp học do Thầy giáo Thuyết dạy. Thầy đã già, khi nào
cũng mặc áo the thâm đi giày hạ đứng lớp. Mặc dù dạy tư nhưng thầy rất nghiêm.
Học trò nào hư thầy dùng thước kẻ đánh trên mu bàn tay hay bắt chụm tay đánh
trên đầu ngón. Có đứa hoang nghịch dạy bảo hoài không vâng lời thì Thầy bắt
đứng quay mặt vô bảng đen, Thầy dùng roi mây quất vào mông. Dưới bảng đen, Thầy
để hai miếng xơ mít khô có gai tua tủa, Thầy dọa đứa nào hư quá hay hổn láo quá
thuộc loại bất trị thì bị Thầy phạt quỳ xơ mít. Cứ nghĩ mặc quần xà loỏng mà
quỳ đầu gối trần trên miếng xơ mít khô tua tủa gai nhọn hoắc, đứa nào cũng xanh
mặt, le lưỡi, lắc đầu. Chắc Thầy chỉ dọa thôi vì suốt thời gian học tôi chẳng
thấy đứa nào bị quỳ xơ mít cả.
Kỳ
nhập học niên khóa 1952-1953, Ba tôi qua trường Tiểu học Vạn Xuân,bên kia sông
Bạch Yến, xin cho tôi vào học lớp Năm. Lớp tôi học hồi đó mái còn lợp tranh
vách tre trét đất, hai bên có tấm phên liếp chống lên, hạ xuống để lấy ánh sáng
và thoáng khí cho lớp học. Hè năm 1956 mấy lớp Năm, Tư, Ba mới xây gạch mái
tôn. Lớp Nhì và lớp Nhất thì học ở hai lớp trên cái nền gạch cao nghệu, cao hơn
sân trường chừng mét rưỡi, phải đi lên có cả chục bậc cấp.
Cô giáo Hà Huy Lương dạy lớp năm, nhà ở gần
trường, trong khu Phú Mộng. Lúc ấy Cô đã lớn tuổi, người thanh mãnh, nếp cao
sang, nước da trắng, giọng ấm áp, hiền từ nhìn tôi, nói với ba tôi : “ Cháu còn
nhỏ quá, chưa đủ tuổi mà bắt cháu đi học làm chi, tội nghiệp.” “ Cô cứ cho nó
học, học không được thì cho nó ở lại lớp cũng được, chẳng hề chi”. Học một năm,
cô giáo thương, phê vô học bạ: “Học lực trung bình, học hành chăm chỉ, ngoan
ngoãn, tánh nết hiền lành, dễ thương”. Có lẽ vào thập niên 50 thế kỷ XX mới có
cô giáo phê học bạ dài dòng và đầy đủ về một đứa học trò nhỏ như vậy.
Lên lớp Tư, tôi học thầy Tề. Thầy
thấp người, nước da ngâm, cục tính, giọng nói rổn rảng, học trò sợ Thầy ghê
lắm. Sau này, Thầy đánh anh Nguyễn Đức Châu nặng tay, phụ huynh vào trực tiếp
khiếu nại ở Ty tiểu học, Thầy bị đổi đi trường khác.
Lúc đó, trường Vạn xuân thiếu phòng
học nên phải dùng ngôi đình làng ở tận ngoài Ba Bến, cách trường chính hơn một
kilomet, làm lớp học. Tên gọi như thế vì đó là ngã ba sông Bạch Yến- sông đào
An Hòa, một con đò đưa khách qua 3 cái bến: Kim long hạ thôn còn goi là xóm
Trâu, làng Vạn Xuân và phía phường Phú thạnh . Bến đò phía Phú Thạnh thẳng
hướng cửa Chánh Tây của hoàng thành.
Ngôi đình lợp ngói, nhiều cột, không
có cửa nẻo gì cả được ngăn đôi thành 2 lớp học. Người ta có sáng kiến lấy mấy
cái giá để binh khí có cán dài như đại đao, chùy,thương… làm đồ thờ cúng ngăn
đôi cái đình, một tấm phên liếp ngăn hai lớp học , sắp 3 dãy bàn ghế , dựng hai
cái bảng đen đâu lưng nhau là thành 2 lớp học.
Tuổi con nít, ngồi học trong đình,
những bàn học kê ngay trước các bệ thờ cúng với bài vị, chân đèn, mâm quả sơn son. các cột đình treo mấy câu liển đối,
trong bụng đứa học trò nào cũng thấy ghê ghê. Phía trước đình là bốn trụ biểu
ốp mảnh sành,sau lưng đình là một bãi tranh, bên trái là mấy vồng khoai sắn,
bên ngoài phía bên phải là cồn mã thâm u, xa xa thấp thoáng mấy vòm tre trúc
gợi nỗi sợ ma vì nghe người ta dọa nhau là ma đã từng đem người thu dấu vào đó.
Sân đình rộng chúng tôi tha hồ tung
tăng chạy nhảy nô đùa. Dưới tàn hai cây bàng sum suê, tỏa bóng mát, có 2 cái am
thấp để mấy bài vị, bát nhang. Dưới gốc bàng, người dân chất đống không biết cơ
man nào là ông táo đất gảy gọng, bình vôi sức vòi. Trong trí tưởng trẻ thơ của
tôi, không biết bao nhiêu chuyện thần thoại và truyện kể ma quái hiện hình
trong những góc khuất của đình của am, bờ cây bụi rậm trong không gian ngôi
đình-lớp học đó, sợ thật. Hồi đó tôi thấy sao mà cái đình làng to thế! Sau này
đã khôn lớn, khi theo gia đình chạp mộ bên ngoại trong bãi tha ma gần đình, tôi
bật cười vì thấy cái đình bé tí tẹo, vậy mà hồi đó chứa được đến hai lớp học, mỗi lớp
đến gần 60 học trò! Lạ thật.
Con đường đất dẫn đến ngôi đình-
lớp học chạy dọc theo con sông Bạch Yến cách bờ sông chừng 40, 50 mét.Từ cửa
Hữu phía phường Phú Thạnh qua làng Vạn Xuân đi qua một chuyến đò ngang. Lúc tôi
còn nhỏ nhỏ thì Mệ Nốt chèo, sau này là O Nay, O Xê… chống đưa khách và học trò
qua sông. Học trò được miển phí qua đò vậy mà khi lên đò thì hay nghịch ngợm xô
đẩy nhau, rung lắc, quậy phá như giặc.
Từ bến đò kẻ Vạn ra đến cầu Bạch Hổ phía bờ sông có nhà dân sinh sống còn
về phía Ba Bến, chỉ có 3 nhà mà thôi trong đó có quán O Mãn bán kẹo bánh, cóc
ổi, nước chanh hột é và những thứ hợp khẩu vị ưa ăn vặt của lứa học trò nhỏ chúng tôi, còn lại là đất biền của những
người trồng rau, củ quả nông nghiệp.,
Nhà Ông Phát, người gốc Tàu dáng to bè bè, giọng vang, ở gần cống bắt
qua mương thoát nước từ trong Phú Mộng ra, nằm sát cạnh bến đò là một cái quán
tạp hóa bán đủ thứ cho học trò. Cứ giờ chơi hay bãi học, lũ học trò bu quanh
nhao nhao mua cái này cái nọ, đôi khi cục tẩy, cây bút chì hay một cây kẹo que,
vài hột ô mai mà làm tứng lựng lựng. Phía đối diện, nhìn ra sông, hầu hết là
phủ đệ của những gia đình danh giá, vườn rộng, cây cối um tùm. Đầu góc đường làng
này giao với con đường từ chiếc cầu Bạch Hổ đi lên Kim Long là phủ đệ của Họ
Phạm trong Nam Châu hội quán, có anh Phạm Đăng Khiêm học trên tôi hai lớp và em
gái là Phạm thị Tịnh Muội , bạn học cùng lớp với tôi ở trong đó. Thấp thoáng sau
những hàng chè tàu cao quá đầu người là những ngôi nhà gạch mái ngói sang trọng
nằm giữa khu vườn có bình phong che phía mặt tiền nhà. Trên đường đi ra Ba Bến,
bên trái có ngôi chùa của Thầy Thứ, có hai cây chai thân thẳng đứng, cao ngất,
quả hình cầu vỏ cứng, bên trong có nhân dẻo mà béo ngậy. Mỗi lần đi học ngang qua chùa, lần nào tôi
cũng có cảm giác rờn rợn vì tưởng tượng có hồn ma bóng quế dõi mắt theo tôi. Sợ
thì sợ nhưng tôi với thằng bạn học ở gần nhà cũng hay vô chùa tìm lượm trái
chai.
Mùa xuân, mùa hè chúng tôi đi học
ngoài đình, xa một chút nhưng lại rất thích vì đươc tung tăng dưới những hàng
cây cao bóng mát và chơi đùa trong khung cảnh đồng nội đáng yêu. Dọc đường và
ngoài đồng hoang, nhiều bụi rậm với nhiều loại trái cây dại như cây ngũ sắc, mâm
xôi đỏ thắm, cây chua, hoa trắng, trái chín đen sì …là quà tặng của thiên nhiên
mà lũ trẻ chúng tôi rất thích. Những cây đào, cây mận, khế chua, me, ổi sẻ đến
mùa nào thì lũ học trò nghịch ngợm chúng tôi chọc hái mùa đó, đôi khi bị chủ
nhà xua chó ra đuổi lũ học trò chạy tóe khói. Lại còn thú đi bắt châu chấu, cào
cào, bươm bướm trên đồng hoặc các con bọ cánh cam, bọ rùa duới những phiến lá
cây leo, cây dại. Qua mùa đông, đi học dưới cái lạnh cắt da của mưa gió trên
con đường trống trải là một cực hình. Ba tôi đặt thợ tơi nón làm cho tôi một
cái tơi đọt, gió tạt đàng nào xoay tơi theo ngã đó rất thuận tiện nhưng lá tơi
lại cọ vào gót chân làm chảy máu nên phải thay bằng cái áo dầu đi mưa.
Có mấy chuyện ngồ ngộ khi tôi học
lớp tư ngoài đình-lớp học này.
Năm 1953, sau trận lụt kinh hoàng
năm Quý Tỵ, ngành y tế được sự hổ trợ về kinh phí thuốc men của Mỹ để phòng
dịch và phòng bệnh. Chủng ngừa bệnh đậu mùa gọi nôm na là “trồng đậu”, chủng
ngừa lao và chủng ngừa thương hàn, uốn ván, ho gà.
Lần chích thuốc chủng ngừa lao,trước
tiên, y tá tiêm thử phản ứng dưới da ở cánh tay tại đình. Đến khi chính thuốc
chủng, thầy Tề dẫn một đoàn học sinh rồng rắn nối đuôi nhau đi hơn cây số vô
trường Vạn Xuân. Mấy học sinh lớp nhì lớp nhất nhốn nháo dọa “ chích thuốc ghê
lắm, cây kim dài như ri nè.” Hai tay họ đưa ra như thể cây kim dài cả thước. Bọn
nhỏ chúng tôi nghe thế sợ xanh mặt. Có đứa trốn để khỏi bị chích . Tôi run
nhưng cũng đánh bạo vào chích thuốc vì nghĩ là chích thì ngừa được bệnh. Xong
ra ngoài tôi nói với mấy đứa bạn trốn chích “ như kiến cắn thôi, có chi mà sợ”.
Vậy mà có mấy đứa vẫn sợ xanh mặt không dám chích!
Một hôm, trên đường đến lớp, tôi thấy
mấy bạn học túm tụm quanh lùm cây bên vệ đường góc vườn một biệt thự, lăng xăng
tới dòm dòm vô bụi rậm rồi tản ra la hét chạy tán loạn. Thì ra các bạn đang
chọc phá, ném đá một tổ ong vò vẻ . Ong vò vẻ đốt nẻ lưởi cày! Ong bị chọc phá
tìm lũ trẻ để đốt. Chúng bay nhanh như tên xẹt. Mật là một học trò lớp tôi vô
tình không để ý, xăm xăm đi qua. Một lũ ong ào tới đốt. Mật té ngữa trên đường
phải đưa đi cấp cứu vì ong châm đến năm sáu mũi, mặt sưng vù phải nghỉ học đến
cả tuần. Đúng là học trò nghịch tặc. Hết trò chơi sao mà lại đi chọc ong vò vẻ cho vui! Hết biết.
Một lần đi học về cùng với Hoài,
gặp một nhóm trẻ lớn tuổi hơn chúng tôi một tí đi ngược lại. Nhỏ tuổi nhưng
nhóm trẻ này coi bộ nghênh ngang lắm. Hoài tái mặt nói nhỏ với tôi: “ Tụi ni
học trường Xanh tờ Mari, dữ lắm.”. Không biết Hoài nói đúng không nhưng tôi cũng
hớt hãi chạy theo Hoài vô một vườn cây bên đường, núp sau cành lá một cây cọ.Tránh
voi chẳng xấu mặt nào! Mấy đứa trẻ ấy
quả là trời thần đất lỡ, vào lôi hai đứa tôi ra như lôi hai con nhái. “ Tụi bây
mà học hành chi, tốn tiền ba mạ. Về nhà hốt rác”. Không biết tụi nó học lối nói
anh chị từ đâu. Thế rồi, thằng bé bặm trợn nhất mở banh cặp táp của tôi và ném
tất cả sách vở bút mực của tôi xuống dưới biền. Quăng cặp của tôi xuống đất, dí
chân lên rồi chúng khoái chí cười ha hả bỏ đi. Giận chúng tím mặt nhưng hai đứa
tôi cũng đành bấm bụng xuống biền đi tìm và nhặt nhạnh từng thứ một.
Sau này, ở Sài gòn tôi gặp lại và thân thiết với anh chàng đã quăng sách vở của tôi xuống biền. Trước 1975, anh chàng từng vô tu ở chùa Tăng Quang Tự trước trường trung học Gia Hội thành phố Huế, đắp y vàng sống đời đạo hạnh. Ra đời, lấy vợ, buôn bán khá giả, rảnh rổi ngồi nghiên cứu triết học Đông Tây và Phật học. Nhắc chuyện xưa anh chàng vỗ ngực tự hào “ Mi nhớ chuyện Lưu Bình Dương Lễ không? nhờ tau chơi như rứa, mi mới chịu lo học hành mới đổ đạt thành tài đó nghe. Không biết ơn răng mi còn oán tau?”. Té ra nhờ chàng ta tôi mới lo học hành. Hay thật?!
Lên lớp Ba, tôi học Thầy Trợ Táo.
Nhà Thầy ở trên đường đi ra Ba Bến. Thầy cao, da trắng, tóc bạc, miệng móm,
hiền từ. Thầy có người con gái học lớp tôi tên Liên, cũng cao ráo và đẹp gái.
Thầy rất thương tôi, có lẻ vì tôi chăm học lại hiền lành.
Lên lớp Nhì, tôi học Thầy Trần Trọng
Khoái, là hiệu trưởng trường Vạn Xuân. Thầy Khoái hiền từ, da trắng hồng nhuận,
phong cách lịch thiệp và nghiêm cẩn, giọng vang. Nhà Thầy ở làng Nam Phổ, qua Đập Đá, khỏi Vĩ Dạ. Mãi
sau khi thi đậu vào lớp đệ thất trường Quốc học năm 1957, tôi mới được Ba tôi
chở xuống nhà thăm và cám ơn Thầy. Năm học này chẳng có gì đặc biệt. Thầy Khoái
bây giờ đang ở Mỹ, hoạt động tích cực trong Hội Từ Bi Quan Thế Âm trong vai trò
Hội trưởng. Cuối năm 2012, tôi về Huế, rủ các bạn học thời Tiểu học gồm các bạn
Tịnh Muội, Tôn thất Nghệ, Hướng, Ri, Lộc đến thăm Cô Tôn nữ Hoàng Yến là cô
giáo dạy chúng tôi lớp Nhất niên khóa 56-57. Cô cho chúng tôi xem lá thư viết
tay nắn nót rất trân trọng của Thầy Khoái gửi Cô, hàm chứa trong đó tình cảm
chân thành của những Thầy Cô giáo từng một thời cùng nhau giảng dạy chúng tôi
dưới mái trường Tiểu học Vạn Xuân.
Cô Tôn Nữ Hoàng Yến, là con gái Cụ
họa sĩ Tôn Thất Sa. Năm đó cô mới đổi từ trường Hòa Vang trong Đà nẵng ra dạy
gần nhà. Gia đình cô có căn biệt thự xây kiểu Pháp trong khu vườn rộng nhiều
cây trái, cách trường Vạn Xuân chừng bốn trăm mét. Vườn bao bọc bằng hàng rào
chè tàu cắt tỉa thẳng thớm. Nhà cô có nét đặc trưng cho không gian nhà vườn Huế
trang nhã mà sang trọng.
Cô dạy tận tâm, giảng bài hay và dễ
hiểu. Giọng cô thanh tao như giọng hát. Cô hát hay và là giọng ca nữ trong ca
đoàn hát thánh ca nhà thờ cha Thích gần nhà.
Năm học đó, tôi là nam sinh mà bị
cô đưa lên ngồi cùng bàn với đám con gái vì một chuyện rất tức cười. Nhà tôi và
nhà một người bạn thân học cùng lớp là Nguyễn Hoài, ở gần nhau. Chúng tôi
thường rủ nhau đi học qua đò ngang. Hôm đó, thấy nước sông cạn có thể lội bộ
qua, hai chúng tôi cùng lội. Hoài leo lên cồn trước, đó là một dải đất nổi giữa
sông cỏ mọc um tùm, Hoài lượm được một quả trứng vịt do bầy vịt người ta chăn
thả, đẻ rơi. Hoài trở lại nhà cất trứng rồi mới đi học. Hôm sau, Hoài chạy
trước tìm trứng, tôi chậm chân đi sau. Thế mà tôi lại lượm được một cái trứng
vịt. Sợ trể học, tôi đem trứng vào lớp học, bỏ trong cái mũ bê-rê. Hoài ngồi
cạnh tôi, ở bàn đầu của nam sinh, cạnh cửa ra vào cứ thỉnh thoảng đưa tay xuống
hộc bàn lắc cái trứng kêu lộc cộc, lộc cộc. Cô nhìn xuống, ra chiều hỏi cái gì
vậy. Hoài tinh quái đưa tay chỉ sau lưng tôi ý nói tôi làm đấy. Cô liền bảo tôi
lên ngồi chung bàn với đám con gái, gần chị Lễ mắt lé mại và chị Thái cao kều.
Chỉ một chuyện vớ vẩn như thế mả cả năm học lớp nhất, tôi bị ngồi riêng với đám
con gái. Tôi hiền và sợ cô nên cũng chẳng phân bua .
Cuối năm, thi tuyển vào Đệ thất
trường công, lớp tôi đậu chừng nửa lớp, một số vô trường Hàm Nghi, một số vô
trường Quốc Học. Đạt kết quả như thế là nhờ cô Yến giảng dạy có phương pháp dễ
hiểu và rất tận tâm chứ hồi đó thi đậu vào trường công khó lắm.
Kỳ thi concours này trừ trường Đồng Khánh
dành cho nữ sinh thi và chấm riêng, còn có một Hội đồng thi chung cho các
trường Quốc Học, Hàm Nghi, Nguyễn Tri Phương. Nam sinh nạp đơn vào trường công nào
là theo nguyện vọng của mình. Bài vở được chấm chung nên trình độ học sinh các
trường tương đương nhau. Chỉ có khác là trường Quốc học chỉ lấy vào hai lớp
khoảng 100 học sinh nên khó đậu vào đệ thất hơn các trường Hàm Nghi, Nguyễn Tri
Phường nhận vào năm sáu lớp.
Bạn Cung Trọng Bảo là Thủ khoa khóa thi vào Đệ
Thất chấm chung năm 1957 vào học trường Hàm Nghi, bạn Trần Đại Hiền ( thân sinh
ca sĩ nổi tiếng Trần Thái Hòa) là đồng thủ khoa, vào học trường Nguyễn Tri
Phương, bạn Hồ Đăng Kế, đậu hạng 3 vào học trường Nguyễn Tri Phương.
* *
Năm 1957, tôi vào học lớp đệ thất trường
Quốc học Huế. Trường này chỉ thi tuyển vào đệ thất thêm hai năm 1958 và 1959 rồi
ngưng. Mãi đến năm 1963 trường mới tuyển trở lại các lớp đệ nhất cấp.
Quốc học và Đồng Khánh là hai ngôi
trường tiếng tăm nằm cạnh nhau trên con đường Lê Lợi, nhìn ra dòng sông Hương
thơ mộng. Hai trường chỉ cách nhau một con đường.
Trường
được thiết kế theo kiến trúc kiểu Pháp, cùng quét vôi tường màu đỏ và điểm xuyết màu trắng sơn các viền, các vạch
nên nhìn dáng vẻ rất riêng, nổi bật sau những tán cây xanh tốt. Không gian dạy học của hai trường rất nghiêm
tịnh. Màu đỏ sơn tường của trường Quốc Học đậm hơn ra vẻ mạnh mẽ vóc dáng con
trai còn màu đỏ sơn tường của trường Đồng Khánh ửng màu hồng hơn một chút ra vẻ dịu dàng con gái.
Cổng trường Quốc học được thiết kế
theo kiểu tam quan hai mái ngói lư ly âm dương có họa tiết cổ kính rất đẹp.
Đối diện trường là đài tưởng niệm chiến sĩ
trận vong. Người Huế hay gọi là “bia Quốc Học” vì vị trí bia đặt ngay trước
trường như một bức bình phong , thiết kế của bia lại phù hợp thiết kế của
trường Quốc Học làm nhiều người tưởng lầm đó là một phần cùa trường.
Đó là đài tưởng niệm những binh sĩ
người Pháp và người Việt đã bỏ mạng trong cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất
(1914-1918), tọa lạc sát bờ nam sông Hương, trước mặt trường Quốc Học Huế. Đài
được khởi công xây dựng ngày 12/5/1920, hoàn thành ngày 18/9/1920. Đồ án thiết
kế đài tưởng niệm này của Cụ Tôn Thất Sa, giáo sư hội họa trường Bá Công Huế (
sau này đổi tên là Trường Kỹ thuật). Cụ là một họa sĩ nỗi tiếng thời trước,
đoạt giải nhất cuộc thi thiết kế và được chính quyền bảo hộ Pháp hồi đó thưởng 80
đồng cho thiết kế Bia kỷ niệm chiến sĩ trận vong này ( hồi đó 80 đồng là to
lắm, giá trị lắm). Đài được xây dựng
dưới hình thức một chiếc bình phong truyền thống có mái che giả ngói. Thân và
bệ đài được trang trí bằng các mô típ rồng, lân, chữ thọ cách điệu, mai, lan,
cúc, trúc hết sức linh hoạt nhìn rất mỹ thuật và hài hòa. Phía trước đài, xây
hai trụ biểu cao bằng gạch khiến đài càng uy nghiêm. Mặt trước thân đài trước
đây có ghi tên 31 người Pháp và 78 người Việt, sau bị xóa. Đài tưởng niệm chiến
sĩ Trân Vong tuy xây dựng theo đường lối mị dân của thực dân Pháp nhưng lại là
một di tích có giá trị về kiến trúc, nghệ thuật. Di tích này đặc biệt phù hợp
với trường Quốc Học và cảnh quan cổ kính thơ mộng bên dòng sông Hương.
Ngoài cổng đi vào, là văn phòng
giám học và giám thị. Xa hai bên là hai tòa nhà một tầng dành cho hiệu trưởng
và giám học.
Năm 1962, nhà ở của giám học bị cháy không rõ
nguyên nhân. Lửa đột nhiên phát ra, chạy dọc theo dưới mái, rui mèn cháy sém như
lửa lân tinh. Người ta sợ hãi nói là hồn ma bóng quế đốt lửa nên bày bàn cúng kiếng cầu đảo suốt mấy ngày.
Những năm chúng tôi học, trãi qua
nhiều đời hiệu trưởng: Thầy Nguyễn đình Hàm(1956-1958), Thầy Đinh
Qui(1958-1963), Thầy Dương Thiệu Tống(1963-1964), Thầy Nguyễn Ký (1964-1971).
Thầy Văn Đình Hy làm giám học. Thầy Đường, Thầy Kế, Thầy Hải làm giám thị.
Hai dãy lầu một tầng cao rộng uy
nghiêm nằm đối diện nhau nhìn ra cột cờ giữa sân trường. Phòng học trong hai
dãy này rộng rãi, thoáng đãng, đầy đủ ánh sáng tự nhiên nhờ các cánh cửa sổ lá
sách cao, cách biệt với sân trường bằng hai hành lang rộng rãi nên ngồi trong
lớp học yên tịnh nghe thầy cô giảng bài, học sinh có cảm giác mùa hè thì không
khí mát dịu mà mùa đông lại ấm.
Mấy dãy nhà trệt bao quanh hai tầng
lầu này.
Từ cổng chính đi vào, núp sau lưng
dãy lầu bên trái là các lớp đệ nhất cấp. Khi lên lớp đệ tam chúng tôi vẫn còn
học ở đó. Đứng ở cửa sồ các lớp này, các chàng trai “thứ ba” tha hồ vừa “nghễ” con
gái “ thứ ba” từ xa dù không biết là đẹp hay xấu nhưng chắc chắn là dễ thương.
Các chàng bày nhiều trò chọc ghẹo các cô nàng tinh quái không biết học lớp nào
mà cứ thập thò, ởm ờ, trêu ngươi trên các ô cửa sổ trên lầu của trường Đồng
Khánh bên kia đường.
Lớp đệ nhị C, năm 1963. Cá một lần
mấy cậu đang nhao nhao những trò la hét chọc ghẹo nữ sinh Đồng Khánh bên kia
đường, Thầy giám học Văn Đình Hy bất ngờ xuất hiện. Xui thế chứ! Thầy bắt mấy
đứa đúng gần cửa sổ đang la hét inh òi, phải đứng yên tai chỗ. Cứ thế thầy dùng
cái thước to bảng quất thẳng tay vào mông. Tiếng thước đập vô mông nghe chát
chat, mấy cậu hoang nghịch la oai oái, còn lũ học sinh hiếu kỳ chúng tôi đứng
xem, sợ xanh mặt. Thầy quay ra đám học sinh nhốn nháo bên ngoài nạt “ Ngó chi?
Tụi bay lộn xộn cũng bị đánh như ri!”. Đánh thế còn chưa thấy đủ, thầy bảo
trưởng lớp dẫn cả lớp ra đứng trước cột cờ hát bài quốc ca. Thầy đứng coi thấy
mấy thằng chỉ nhóp nhép miệng chứ không hát, thầy bắt ra đứng riêng hát một
mình. Không thuộc, thầy nện thêm cho mấy roi nữa, quắn đít!!
Thầy Văn Đình Hy, giám học trường
Quốc Học và cô Đặng Tống Tịnh Nhơn, hiệu trưởng trường Đồng Khánh là cặp vợ
chồng danh giá một thời ở thành phố Huế được rất nhiều người ngưỡng mộ. Rất
tiếc là cuộc hôn nhân của họ không hoàn hảo.
Trong trường, học trò đứa nào cũng sợ
Thầy như sợ cọp. Thấy Thầy đàng xa là chúng tôi lo lãng tránh. Sợ Thầy nhưng
học trò không ghét Thầy vì đứa mô cũng nghĩ Thầy làm việc nghiêm túc theo đúng
chức trách giám học của Thầy mà thôi.
Thật sự, theo tôi, Thầy là người
toàn tâm toàn ý và thiết tha với sự hưng thịnh chung của ngành giáo dục và riêng
trường Quốc học. Thầy nghiêm nhưng từ. Có lẽ Thầy chỉ mong uốn nắn học trò theo
khuôn phép khắc khe như thuở Thầy đi học. Thầy nhìn lũ học trò chúng tôi như
một lũ cừu cần phải nghiêm khắc, chăn dắt cho kỹ lưỡng kẻo chúng đi lạc và nếu
cần thì quất vô mông chúng cho chúng chừa thói nghênh ngang?!
Bàn ghế học sinh, bục giảng của
thầy cô giáo đều đóng bằng gỗ kiền, gỗ trắc rất chắc chắn, lâu ngày lên nước
bóng nhẫy. Những năm trường Đồng Khánh chưa có lớp đệ nhất nên nữ sinh phải qua
học ở trường Quốc Học. Trong các lớp đệ nhất A và đệ nhất C mấy năm ấy còn con
gái học chung với con trai. Ban B là ban toán khô khan nên có ít nữ sinh. Trên những
mặt bàn khốn khổ có những lưu bút tỏ tình và những nét khắc vụng về bằng dao
hai tên trai gái trong hình trái tim cổ điển. Khi tôi lên lớp đệ nhất thì các
cô nàng rút dù về Đồng Khánh rồi, làm học trò lứa chúng tôi tiếc ngẫn ngơ. Học
chung với con gái chắc là vui hơn lớp học toàn đực rựa ?
Những hành lang nối các khu nhà lại
với nhau có mái che nắng, che mưa giống với kiến trúc các hành lang nối các khu
nhà trong Kinh thành Huế.
Từ cổng chính đi thẳng vào qua khỏi
sân trường là một sân chơi tráng cement rộng, có mái đúc chúng tôi quen gọi là
préau ( prê-ô). Nơi đây thường đặt mấy cái bàn bóng bàn không lưới. Học sinh tự
giăng lưới và mang vợt, bóng tới chơi. Chúng tôi thường chăng một sợi dây, xé mấy
tờ giấy vở bỏ lên làm lưới, thế là tha hồ quần thảo hết giờ nghỉ buổi trưa ở lại
trường. Phía tay trái từ ngoài nhìn vào, préau có một sân khấu xi măng, nhưng
ít khi dùng vì ở phòng khánh tiết trên dãy lầu bên phải cũng có sân khấu rồi.
Sau lưng dãy lầu bên phải là phòng thí nghiệm lý, hóa,
vạn vật. Trước phòng thí nghiệm là nơi để xe của học sinh, dưới hàng cây muối
thân cao, tàn lá rậm che mát mấy phòng học trên lầu. Trong bài” Có một giòng
sông đã qua đời” có đoạn “Mười năm xưa
đứng bên bờ dậu. Ðường xanh hoa muối bay rì rào. Có người lòng như khăn mới thêu.
Mười năm sau áo bay đường chiều Bàn chân trong phố xa lạ nhiều Có người lòng
như nắng qua đèo”. Trịnh công Sơn nghe hoa muối bay rì rào chắc là mấy cây muối dọc đường Nguyễn Trường Tộ, lối
đi qua Phủ Cam có nhà của hai người đẹp Bích Diễm và Dao Ánh con của Thầy Ngô
Đốc Khánh, dạy Pháp văn trường Quốc Học. Chúng tôi học cả bảy năm ở trường
chẳng hề nghe tiếng hoa lá rì rào. Có lẽ chỉ có nhạc sĩ thẩm âm vi tế và hồn
thơ lai láng mới nghe được âm thanh đó, còn chúng tôi chỉ trần tục đi tìm lựa
cây muối nào có trái chín để nếm thử và hái những chùm trái muối nhỏ nhắn màu
nâu chát chát, chua chua, ngọt ngọt rồi đem qua dem thèm mấy O Đồng Khánh mà
thôi.
Thời kỳ đó, gia đình kha khá mới
sắm được chiếc xe đạp làm phương tiện cho con đi học còn phần đông đi bộ đến trường. Lúc tôi
học trung học, học trò giỏi thường nhà nghèo. Chỉ một số ít con nhà giàu mới đi
các loại xe gắn máy Goebel, Sachs, Mobylette,Vélo Solex. Học trò mà đi xế nổ
lúc đó là sang lắm lắm nhưng thường ham chơi.
Lui phía sau là một dãy trệt, nơi tôi học lớp đệ nhị A2 ở đấu
dãy gần cổng hông phía sau. Kế đến gần sân vận động là mấy gian nhà cho gia
đình mấy ông cai trường trú ngụ, che phủ bởi mấy cây trứng cá xanh tốt.
Ngay rìa phía sau préau, người ta
đặt một cái chuông đồng dáng bè bè như chuông nhà thờ, để báo giờ vào lớp, giờ
chuyển tiết học, giờ ra chơi, giờ bãi. Ông cai trường gõ chuông bằng dùi sắt,
tiếng chuông nghe beng beng chứ không nghe trầm hùng như chuông chùa.
Tiếp sau đó là một hành lang ngắn nối
với một phòng rộng, chia làm hai lớp học dành cho những tiết học đặc biệt gọi
là tiết học đổi giờ. Phía sau phòng đôi này là một gian hẹp là nơi trú ngụ của
gia đình mụ cai. Chúng tôi rủ nhau ra mụ cai có nghĩa là ra cái quán xép của
mụ, một nơi hấp dẫn lũ học trò ưa ăn vặt chúng tôi trong mười lăm phút giờ ra
chơi. Mụ bán các loại bánh kẹo, nước giải khát. Đặc biệt là hai món: chuối
chiên vị béo ngậy, chè đá bào ngọt và mát hai cái má và mát đến dạ dày. Chắc
hẳn những bạn bè thuở đó hể nhớ về trường thì cách chi cũng nhớ về cái quán mụ
cai.
Sau hiệp định Genève ký ngày
20/7/1954, người Pháp trả lại khuôn viên trường Quốc Học lại cho nghành giáo
dục Việt Nam nhưng mãi đến ngày
29/01/1955 học sinh Quốc Học mới được trở lại học ở trường. Trước đó, bị người
Pháp chiếm dụng trường, học trò Quốc Học phải học ở trường Việt Anh ( sau này
là Nguyễn Tri Phương) và một dãy lầu bên phải của trường Đồng Khánh.
Khu vực phía sau trường,được sữ dụng làm
kho cho quân nhu hay quân cụ gì đó. Khi trả lại đất cho trường, khu vực đó gò
đống ngổn ngang.Trên hàng rào, dây thép gai giăng đầy. Trong những giao thông
hào sát bờ thành, vương vải nhiều băng đạn nguyên băng và đạn rời chưa sử dụng.
Chúng tôi tha hồ nhặt thuốc súng dạng bột, dạng viên và từng xấp plastic về đốt chơi. Có đứa nghịch
ngợm gom một đống đạn đem đốt dưới hố để
nghe nổ lốp bốp cho vui tai! May mà chưa có đứa học sinh nào bị ăn đạn.
Nhà trường dùng căn nhà sẵn ở đó
làm thư viện và khoảng đất đó, nhà trường cho đổ đất đỏ lên cao làm sân bóng đá
và học sinh đồng diễn vào các dịp lễ hội. Có đường chạy quanh hình bầu dục và các nơi tập xà đơn, xà kép,
xà lệch và đu dây. Nhiều thứ như vậy, nhưng bọn trẻ chúng tôi chẳng hề tập mà
chỉ thỉnh thoảng đá bóng, đu dây mà thôi.
Sáng nào học sinh cũng xếp hàng
chào cờ trước khi vào lớp.
Riêng sáng thứ hai hàng tuần, học
sinh phải mặc đồng phục màu trắng , còn ngày thường thì đồng phục áo trắng quần
xanh màu nước biển, mang sandal hay giày chứ không được mang dép lê. Miền Nam
lúc đó dùng bài hát “ Tiếng gọi thanh niên” của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước làm quốc
ca, chỉ có khác lời một chút “ Này thanh niên ơi” đổi lại là “Này công dân ơi”
mặc dù lúc đó Lưu Hữu Phước là nhạc sĩ miền nam ra Bắc tập kết rồi. Sau bài
quốc ca là bài “Suy tôn Ngô Tổng thống” do một nhạc sĩ bồi bút viết. Trong bài
này có đoạn “ Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng thống. Ngô Tổng thống, Ngô Tổng
thống muôn năm, Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng thống. Xin Thượng đế ban
phước lành cho người”. Có chế độ nào mà tồn tại muôn năm?! Chắc là chỉ có trong ảo tưởng về sự bất tử
“muôn năm trường trị” của một chế độ và trong những lời bốc thơm của bồi bút mà
thôi !
Sau sự kiện 8 em Phật tử bị lựu đạn
và xe tăng cán chết và 20 người bị thương ở đài phát thanh Huế đêm lễ Phật Đản
(08 tháng 5 năm 1963), cuộc đấu tranh chống kỳ thị tôn giáo bùng lên mạnh mẽ ở
Huế và lan ra cả nước. Ngày 21 tháng 8 năm 1963, ông Diệm ban hành lịnh thiết
quân luật thì đêm 22 tháng 8, lực lượng đặc biệt theo lịnh ông Nhu tấn công vào
chùa chiền trên cả nước, bắt giam sư sãi và Phật tử.
Thế mà, ngày thứ hai, 2/9/63, trong
lúc học sinh đang còn nhốn nháo sắp hàng xếp lớp khai giảng năm học 1963-1964,
có mấy học sinh nhảy lên sân khấu ở préau trường Quốc Học, giương cao hai cái
biểu ngữ và phát những tờ truyền đơn quay ronéo hô hào học sinh với nội dung
“Đả đảo chế độ độc tài Ngô đình Diệm”. Chúng tôi vô cùng sững sốt. Ông giám học
Văn Đình Hy huy động các giám thị và cai trường đuổi bắt mấy học sinh dám làm
chuyện động trời như thế trong trường. Việc làm của các bạn ấy thật đáng nễ
phục. Các học sinh này nhanh chóng cuốn biểu ngữ chạy trốn.
Nhiều học sinh sau đó bị cảnh sát truy
ra và mang xe đến nhà bắt vì có dính dáng đến việc làm gan dạ nói trên. Tôn
thất Mạnh Lương và Ngô văn Chơn bị giam ở lao Thừa Phủ cho đến sau ngày 1 tháng
11năm 1963, sau khi tướng lãnh quân đội Cọng hòa lật đổ chế độ và bắn chết hai
ông Diệm Nhu, họ mới được thả ra. Cao Hữu Điền nễ lời Mạnh Lương bạn thân học
cùng lớp đệ nhị C, ôm cái cặp da đựng 2 biểu ngữ và truyền đơn đào hố chôn dưới
gốc bụi chuối sau nhà cũng bị cảnh sát đến nhà bắt giam , Thân Trọng Mẫn và một người đẹp nổi
tiếng Đồng Khánh, Quốc Học là Diệm My cũng bị bắt giam ba ngày ở phòng thẩm vấn
của công an ở đồng An Cựu.
Sau ngày 1 tháng 11 năm 1963, chào
cờ buổi sáng ở trường không hát bài suy tôn nữa. Hết muôn năm ! Trước sau gì
cũng thế !
Khi chúng tôi học đệ nhất cấp, mỗi học sinh đi
học phải mang huy hiệu của trường trên túi trái. Huy hiệu nhỏ nhắn làm bằng sắt
xi nổi lên hình cái cổng trường đỏ thắm có hai mái cong cách điệu trên nền xanh
lục, trên có chữ Quốc Học đóng khung, bên dưới hình cổng có chữ Huế ( có lẽ để
phân biệt với Quốc Học Vinh và Quốc Học Quy Nhơn chăng?). Khi chúng tôi lên lớp
đệ tam năm 1961, trường không dùng huy hiệu nữa, mỗi học sinh mang một bảng
tên, phía trên có họ tên, dưới là hai chữ in hoa “QH”. Đệ nhất cấp không có
gạch, đệ tam một gạch, đệ nhị hai gạch, đệ nhất ba gạch. Khi lên đệ nhất mà
mang bảng tên có ba gạch là oách lắm, tưởng rằng mấy O Đồng Khánh nhìn là lé
mắt, té ra chẳng ai lé cả!! Mấy bạn có bạn gái, cứ quăng vải popeline trắng và
chỉ thêu, vài ngày sau là có mấy bảng tên. Tôi thì bắt mấy đứa em gái thêu bảng
tên. Ngó cái bảng tên mà buồn…năm phút vì mình “ không có ai, đường thêu ôi quá
dài!”
Ông Ngô đình
Khả là thân phụ Tổng thống đương quyền Ngô Đình Diệm. Ông Khả là một tín đồ
Thiên chúa giáo thuần thành, một Thị vệ Nhất đẳng đại thần dưới triều vua Thành
Thái. Ông là một người có công trong việc vận động chính quyền đương thời ở Huế
thành lập nên Trường Quốc học Huế và là vị Chưởng giáo( Hiệu trưởng) đầu tiên,
kiêm Quản giáo môn tiếng Pháp của trường này trong giai đoạn 1896-1902. Bên
cạnh đó, ông Khả còn vận động cho ra đời Trường Dòng tư thục Pellerin Huế mà
sau này gọi là Trường La-san Bình Linh.
Lăng mộ của Ông được an táng ở sườn đồi phía sau,
bên phải, cách nhà thờ Chánh tòa Phủ Cam vài trăm mét.
Năm nào, ngày giỗ của Ông (mồng 2
Tết hàng năm) học sinh Quốc Học cũng “được” tập trung từ sáng tinh mơ, mặc lễ
phục áo trắng tay dài, quần trắng, giày bata trắng kéo lên lăng, dàn ra làm đội
“danh dự”, đứng giang nắng cho tới gần trưa mới xong mọi thủ tục lễ tiết rườm
rà của ngày giỗ. Ra về đứa nào cũng xoàng đầu, choáng óc.
Hình như là điềm báo trước chuyện
không hay cho “gia đình họ Ngô ”, trong cơn mưa gió cuồng nộ đêm 12/6/1963, khu lăng mộ của ông Khả đã bị
một luồng sét đánh trúng tạo thành một đường nứt khá lớn ở bên trên.
* *
Đầu năm học 1957, ba tôi thưởng cho
tôi một chiếc xe đạp dàn nhỏ dành cho con nít, sơn màu xanh biển làm phương
tiện đi học.
Còn nhỏ, mới vô đệ thất nhưng tôi
cũng lăng xăng . Một lần sau buổi học chiều, họp ban văn nghệ toàn trường để
chuẩn bị văn nghệ chung hai trường Quốc học và Đồng Khánh. Tôi là con nít kéo
màn sân khấu còn chưa ai cho lấy gì mà tham gia, thế mà tôi cũng bày đặt họp
với hành . Buổi họp kéo dài đến sập tối.Ngồi trong đám đông nực nội không quen
lại đói bụng cồn cào, dù cảm thấy chóng mặt nhưng tôi vẫn ráng đạp xe về nhà. Thế
là tôi choáng váng, ngất xỉu và té xe giữa đường khi nào không hay. Khi tỉnh
dậy thấy mình nằm ở phóng cấp cứu bịnh viện Trung Ương Huế. Thấy tôi hồi tỉnh, y
tá trực gọi điện thì một chiếc xe GMC mui trần của cảnh sát đến và đưa tôi về
tận nhà. Mẹ tôi đón con, miệng cảm ơn mấy anh cảnh sát rối rít.
Sau lần bị ngất xỉu đó, ba tôi mua
cho tôi một chiếc xe đạp nữ nhỏ( dạng mini). Tôi nhỏ con đến độ, đi chiếc xe
mini đó cho đến năm học lớp Đệ tam, ngồi trên yên chống một chân xuống đất còn
phải nhón chân! Vậy mà qua chì một năm đệ nhị, tôi cao phổng lên thêm hai tất
như trẻ uống sữa voi?
Bây
giờ,tôi thấy con cháu học hành sao kinh quá. Cặp chứa bao nhiêu là sách vở nặng
nề mấy cháu mang xệ cả vai. Giờ giấc học thiệt là ná thở. Sáng trưa chiều tối
không khi nào không thấy lũ trẻ học. Học trường chưa đủ, tranh thủ học thêm.
Học đủ thứ môn mà học trò đâu có giỏi giang gì hơn chúng tôi hồi xưa!
Hồi đó, chúng tôi học hành sao
sướng thế. Mọi bài vở đều được thầy cô tận tình dạy ở trên lớp. Vài bài tập ở
nhà. Lo bài vở xong tha hồ chơi. Chẳng thầy cô nào lùa học sinh về nhà dạy
thêm. Tự giác siêng năng học tập thì lên lớp. Nhác học thì ở lại lớp. Chỉ đến
những kỳ thi cử vô đệ thất, thành chung, tú tài một, tú tài hai thì học sinh mới
phải nổ lực hơn một chút mà thôi.
Cứ đọc bài thơ “Nghỉ hè” của Xuân
Tâm là thấy rõ:
Sung
sướng quá, giờ cuối cùng đã đến
Đoàn trai non hớn hở rủ nhau về
Chín mười ngày nhảy nhót ở miền quê
Ôi tất cả mùa xuân trong mùa hạ….
Đoàn trai non hớn hở rủ nhau về
Chín mười ngày nhảy nhót ở miền quê
Ôi tất cả mùa xuân trong mùa hạ….
Vì cả mùa xuân trong mùa hạ như
thế nên hè năm 1959, thấy thể trạng của tôi gầy gò ốm yếu, nhỏ con, ba tôi cho
tôi về bãi biển Thuận An ở lại nơi quán ông Đới nghỉ ngơi suốt hai tháng trời
không chút mảy may bận tâm tới bài vở. Ngày tắm biển mấy bận, rong chơi dọc
theo bải biển xem ngư phủ kéo lưới, buông câu hay đi tìm chọi kỳ đà, kỳ nhông
trong rừng dương phòng hộ. Đêm đem đèn pin đi bắt còng về luộc ăn. Sướng ơi là
sướng vô cùng.
Hồi đó, chúng tôi học ngày hai buổi,
trừ thứ năm và thứ bảy được nghỉ buổi chiều. Những ngày học hai buổi chúng tôi
thích ở lại trường buổi trưa. Tôi thường được mạ tôi chuẩn bị thức ăn trưa đàng
hoàng. Thường là cơm ép trong mo cau ăn với cá bóng thệ kho tiêu, thịt bò thưng
hay thịt heo kho mặn, tôm rang. Đôi khi đơn giản là hai cái trứng vịt luộc.
Ở lại trường buổi trưa, đi quanh
trường tìm hái trái muối hay trái trứng cá. Khi trái muối còn non thì chúng tôi
hái làm đạn bắn súng ống hóp, khi chín thì hái ăn. Thích lắm. Tôi còn nhớ cây
muối ngon nhất trường là cây thứ tư tính từ ngoài cổng vào, nằm trước phòng thí
nghiệm
Tôi thường đi học bằng xe đạp. Hồi
đó, cầu Giả Viên là đường đi chung của tàu lửa, xe hơi, xe gắn máy, xe đạp và
người đi bộ. Cầu hẹp nên xe hơi qua cầu theo từng đợt. Bên này qua bên kia phải
dừng lại chờ theo lịnh cờ của hai người đứng hai đầu cầu. Có lối hai bên thành
cầu dành cho người đi bộ. Khi có tàu lửa đi qua, người đi xe đạp phải đưa xe
lên tránh ở lối của người đi bộ này.
Dù có xe đạp nhưng đôi khi tôi lại
thích đi bộ đi học.
Đi trên lề đường Lê Lợi rộng rãi
thoáng mát dưới hàng cây long não lá xanh quanh năm trồng dọc hai bên vệ đường thật
thích thú vô cùng. Đi học sớm, lảng vảng quanh trường Đồng Khánh nhìn một rừng
áo trắng đi qua, O mô cũng dễ thương, lòng rộn lên một ước ao là có một O mô đó
mình thấy thương O mà O thương lại mình thì tuyệt vời biết mấy.
Cũng có khi tôi đi vòng qua đò Thừa
Phủ, xa hơn một chút nhưng được ngắm bao “con yêu bánh nậm” khép nép trong tà
áo dài trắng trong trắng dễ thương. Chúng tôi cũng biết cái lệ đi một hai đứa
con trai qua đò thì thường bị đám con gái ranh mãnh châm chọc nên thủ thế khi
nào bọn con trai cũng rủ nhau xuống đò cùng một lúc…cho đở sợ!
Rứa mà, nhiều chàng trai Quốc học
hồi đó miệng hùm gan sứa. Đứng túm tụm với nhau thì nổ vang trời như nổ kho
đạn, mà hể có tình ý với O mô là khớp cơ, tới gần thì mở miệng không ra, đạp tà
tà theo đuôi người ta rồi, đạp vút qua mặt, ngoãnh lại liếc nhanh một cái rồi
đạp đi thẳng. Mười lần như một. Sợ chi mà sợ dữ, đâu biết là người ta cũng tìm
kiếm một mối tình bỏ túi khi dậy thì:
Tui
cũng muốn có một người tri kỷ
Nhưng đường đời như rứa đó, biết mần răng?
Tui muốn kêu, muốn gọi, muốn thưa rằng
Chờ tui với! A, cười chi lạ rứa?
Nhưng đường đời như rứa đó, biết mần răng?
Tui muốn kêu, muốn gọi, muốn thưa rằng
Chờ tui với! A, cười chi lạ rứa?
(Chi lạ rứa, thơ Nguyễn
thị Hoàng)
Đi
theo người ta, người ta đôi khi thinh thích nhưng ai dám mở miệng nói chuyện với
ai giữa đường giữa sá, mạ la chết! Dị òm! Rứa mà có người dám nói như ri, chắc
chỉ có trong thơ thôi cho đở ấm ức!
Không ngó anh, răng nhìn xuống đất?
Đất có chi đẹp đẽ mô nờ
Theo nhau từ hôm nớ hôm tê
Anh hỏi mãi răng O không nói?
Đất có chi đẹp đẽ mô nờ
Theo nhau từ hôm nớ hôm tê
Anh hỏi mãi răng O không nói?
( Qua mấy ngõ hoa, Mương Mán
)
Hầu như không có một học sinh Quốc Học nào mà không
để ý, say mê, thổn thức, mất ăn mất ngũ vì để ý ít nhất một bóng hồng , một O
Đồng Khánh nào đó. Với học sinh Quốc Học, sức hút Đồng Khánh như lực hút nam
châm, sắt thép cũng nghiêng ngã.
Đi học về, bạn bè rủ nhau vô mấy
quán chè quanh ga xe lửa, ăn một ly che đậu xanh đánh mùi va-ni, nước đá bào,
đối với chúng tôi thời ấy là ngon hết sẫy. Thế rồi, vào ga, tà tà đi bộ dọc
theo đường rây về nhà. Đôi khi hên, gặp chuyến tàu ra Đông Hà, chúng tôi leo
lên đi một đoạn qua khỏi cầu rồi xuống, khỏe re!
Thời kỳ học đệ nhất cấp, vài đứa
được đặt tên hay biệt hiệu. Cho đến bây giờ, bạn bè gặp lại nhau vẫn gọi tên
hay biệt hiệu đó. “Phúc A, Phúc B” để phân biệt hai khứa già của lớp. “Diệm bạc”
không biết sao mà đầu tóc bạc sớm, nhìn còn già hơn mấy thầy trẻ mới ra trường
nữa. “Hữu Ohm” trán cao và rộng nhìn như dấu ký hiệu Ohm trong môn điện, khoa vật
lý. “Trợ trọc” nhỏ con và đầu tóc khi nào cũng hớt ca rê gần sát da đầu. “Thẻo
lùn” lớn tuổi nhưng không cao, thế mà luôn dành làm thủ môn cho đội bóng của
lớp, bay qua bay lại nhảy nhót trong khung thành nhìn rất vui. Anh chàng khi
nào cũng vổ ngực “ tau bay người bắt bóng không thua chi thủ môn Rạng”. Thế mới
ngon!, “Đoàn con” là tôi. Tôi cũng cúp ca rê láng o và thấp người nhưng những
biệt hiệu kia đã có người xí phần nên các bạn gọi tôi là “Đoàn con” để phân
biệt, vã lại lúc đó tôi còn con nít lắm, kêu như vậy cũng chẳng sai. “Đoàn Tờ
râu” trước đi học tên Tờ Râu sau đổi tên giấy khai sinh là Nguyễn văn Đoàn, các
bạn ghép hai tên lại với nhau thành “Đoàn Tờ Râu”. “Phương ngơ” là người mơ
mộng, khi nào cũng lơ đảng như để hồn tận đâu đâu như người cõi trên, “Vinh Tháng
Mười” (octobre) gọi như thế vì đầu bạn ấy to thật. Đầu to nên hẳn nhiên là Óc
To Bờ Rờ. “Tân đờn cò” là biệt hiệu của Nguyễn Phước Hòa Tân, giỏi nhạc lý và
chơi đàn nhị (cò) luyến láy rất tài hoa. Tân học giỏi có hạng trong lớp nhưng
tối tối phải mang đờn cò đi đánh cùng ban cổ nhạc trong các đình đám để lấy
tiền ăn học. “Võ Đèn Bin” là tên nói trại ra của bạn Võ Đình Biên, “Được Bốn To”
là tên gọi của bạn Đặng Tứ Đại…
Thầy Châu Tăng, có lối phát âm giọng mũi rất
đặc biệt, dạy chúng tôi môn sử địa. Thầy ưa xưng Trẩm vối học trò cho vui. Thầy
làm một bài văn vần ghép tên của hầu hết
học sinh lớp tôi. Cứ đọc lên là những khuôn mặt bạn bè học chung bốn năm thuở
trung học đệ nhất cấp hiện ra:
Duy Đa Đại Để Hữu Khôi Biên,
Tín Nhẫn Nam Mai Cống Hiệp Điền,
Lân Hộ Qua Tân Thôi Thọ Thụy,
Vinh Xa Phúc Đẩu Thế Phương Kiêm,
Thế Phú Trai Trâu Duy Trợ Tịch,
Trinh Đoàn Hiếu Diệm Mãn Xuân Huyên.
Gần sáu mươi năm rồi, bây giờ có vài
người đã ra thiên cổ, đọc lại bài này nhớ bạn mà ngậm ngùi.
Thầy Ngô Kha, dạy chúng tôi môn Việt
văn năm đệ tứ (1960-1961). Tập thơ “ Hoa cô độc” của ông xuất bản năm 1962.
Những lúc giải lao giữa giờ hay còn dư mươi phút cuối giờ, thầy hay đem những
bài thơ trong tập ấy ra đọc. Hầu hết là thơ tự do. Lời thơ viễn mộng, chúng tôi
chẳng hiểu chút gì, chẳng biết hay chỗ nào, thấy thầy đọc diễn cảm say sưa, cứ
nghe hết bài là cả lớp vổ tay rầm rầm làm thầy càng khoái, đọc tiếp. Khổ rứa
thôi!
Thầy Văn Giảng dạy nhạc rất thú vị.
Giờ học của thầy rất sinh động. Văn nghệ văn gừng mà.
Thầy Thái đình Uyển dạy môn vẽ và
thủ công. Nhiều kỳ thi lục cá nguyệt, tôi được làm chemise môn vẽ của thầy.
Thầy Đoàn Nê, dạy Pháp văn, vai
rộng, dáng người dày dặn, nước da hồng nhuận, nghiêm nghị, giọng đồng vang.
Thầy dạy hay. Thầy đặc biệt thích khẩu âm của bạn Bảo Lân khi phát âm những chữ
“r” như retour đọc như gờ-tua.
Năm học đệ ngũ, trưa ở lại trường,
vài học sinh ra hố cát nhảy cao và nhảy xa tập vì buổi chiều có thi thể dục.
Bạn Hoàng Trọng Ngoạn căng dây nhảy cao. Tôi và mấy đứa bạn cùng lớp đứng nhìn.
Đợt nhảy thử thứ ba, dây được đưa lên cao. Ngoạn nhảy qua, rơi người xuống,
chống tay. Nghe cái “rắc”, cánh tay Ngoạn gảy cong gần cổ tay. Chúng tôi hoảng
kinh., mặt đứa nào cũng trắng bệch vì sợ. May là trường ở gần bệnh viện nên bạn
ấy được bó bột kịp thời.
Một hôm trời mưa to, gió lớn, nước
mưa tạt vào hành lang dãy trệt đệ nhất cấp. Hành lang ướt nhẹp vì học sinh tới
lui mang sình lên. Trần nhật Thanh đi dọc hành lang bị các bạn đứng hai bên xô
qua xô lại, nghiêng ngã trượt té vô cạnh bàn gảy xương đùi cũng phải đưa đi cấp
cứu. Hoang nghịch như rứa thôi!
Đi lòng vòng trong khuôn viên trường
kiếm bạn để rủ chơi bóng bàn,tôi thấy Tr.và X. là hai bạn học cùng lớp nhưng
lớn hơn tôi đến năm sáu tuổi đang chụm đầu vào nhau, cùng chăm chú vào một xấp
giấy học trò. Tôi rón rén tới gần sau lưng họ. Hai bạn ham chú ý đọc trang
giấy. Những giòng chữ chép tay nhảy múa trước mắt tôi vì đó là câu chuyện tế
nhị .
Hai bạn ấy đã lớn tuổi, cơ thể phát triển ra dáng
thanh niên, họ thường khoe là đã có những cuộc tình với vài ba cô gái rồi. So
với họ, tôi chỉ là Đoàn con, tóc hớt ca-rê, còn ham chơi những trò chơi con
nít, cho tới khi lên đại học chưa có một mối tình lận lưng.
Đọc chưa đầy một trang, những chuyện
phòng the được diễn tả trần trụi làm tôi nóng bừng hai lổ tai. Hèn chi hai đứa theo
dõi câu chuyện say sưa như thế! Chợt nhận ra có người đọc trộm, đọc ké sau
lưng, Tr.cung tay lên tung cùi chỏ làm một cú nơi ngực tôi như trời giáng. Tôi
cười bỏ chạy “ Biết tụi bay rồi nghe. Hoang”.
Tr. nói vói theo “ Đồ con nít, đi chỗ khác chơi”. Ừ, đi thì đi, để cho
tụi hắn đọc cho đã !
Năm học lớp đệ nhị, có một thanh
niên người Mỹ tên là Parson đến trường, được phép mở một lớp dạy tiếng Anh theo
lối học đàm thoại trực tiếp( có lẽ là một sinh viên Mỹ thiện nguyện). Chọn học
sinh vào lớp này, Parson ra một bài thi trắc nghiệm,ai đạt trên điểm số yêu cầu
thì được dự lớp đó. Tôi nhớ trong lớp chỉ có mấy người đạt điểm trắc nghiệm mà
thôi. Trịnh Bình Nam, Huỳnh công Lý, Lê Chẩn, Nguyễn chí Thắng, Võ Thâm, Lập,
Nguyễn đình Toàn, Trần đình Sào, Võ văn Dung và tôi. Không biết có quên ai
không? Vì người học tuyển từ nhiều lớp và giờ học trùng với giờ học bình thường
nên đến giờ Anh văn của Parson, một nhóm học sinh xin phép thầy giáo đến lớp
học thêm này. Năm đệ nhị, chúng tôi học môn Anh văn với thầy Chương, thầy bắt chúng
tôi phát âm theo phiên âm quốc tế nên chúng tôi đọc tiếng Anh khá chuẩn…kiểu Việt nam. Phần nhiều giờ học nhằm
đọc hiểu, dịch xuôi, ít khi dịch ngược nên chúng tôi có thói quen hình thành
câu tiếng Việt trong đầu rồi mới nói ra theo lối dịch. Parson muốn luyện chúng
tôi có phản xạ tức thời khi sử dụng ngôn
ngữ giao tiếp. Sinh ngữ mà?!. Những giờ học này thật ra ít hiệu quả nên chỉ giống
như những giờ thư giản. Đi học ở hội Việt Mỹ bên đường Lý Thường Kiệt tuần ba
buổi còn chưa ăn thua nữa là. Thói quen học ngoại ngữ ở trường đã thành nếp rồi
khó bỏ. Giờ ra chơi, Trịnh Bình Nam và Huỳnh Công Lý hay rủ tôi đến một căn
phòng nhỏ bên rìa phòng thí nghiệm là nơi Parson tạm trú để rèn nói chuyện bằng
tiếng Anh. Tôi ngượng miệng im re, còn hai bạn ấy nói chuyện với Parson…đến mõi
tay.
Năm đệ tam, cô Trung Thu, vợ bác sĩ
Trần Kiêm Khoan, dạy môn lý hóa, làm giáo sư hướng dẫn lớp tôi. Cô có dáng
người cân đối, nói nhanh, giọng ấm. Cô rất năng động. Cô tranh suất học bổng
toàn phần cho bạn Trần Đăng Khôi, một học sinh nghèo học giỏi trong lớp 10A2. Lớp
này là nơi tụ hội học sinh từ nhiều trường Hàm Nghi, Nguyễn tri Phương, Bán
công, Bồ Đề. Có 3 học sinh ở trường Quảng Phước, ngoài Sịa vô lớp là Nguyễn Chí
Thắng, Võ Thâm, Lập.
Bạn Phan văn Lân ngồi bàn đầu gần
tôi, chuẩn bị cho tờ báo của lớp. Lân để mấy bài thơ lục bát trên bàn, không có
tên tác giả. Tôi cầm lên đọc và nói: “ Thơ của đứa mô mà dỡ ri?”. Lân chẳng nói
gì, lấy mấy bài thơ viết thêm ở dưới bút danh của mình“ Phan Nhật Lệ”. Tôi nói
đùa “chừ mi có viết chục tên phan nhật lệ, tau thấy thơ dỡ vẫn cứ dỡ”. Anh
chàng hồi đó mới đệ tam mà đã có thơ đăng trên nhiều báo rồi. Nhìn chàng thấy khi
nào cũng tà tà ra dáng một nhà thơ lớn!! Nhiều người ngưỡng mộ tài thơ của
chàng, chỉ có tôi chê nên chàng tức lắm!
Môn tiếng Anh, mấy năm đầu đệ nhất
cấp học sách L’Anglais vivant,Thầy Bảo Phốc dạy Anh văn đệ Thất, Lục, Thầy chải
đầu phồng cao, mặc quần bó sát, áo thụng, phong cách thoải mái kiểu Sài gòn, chúng
tôi rất thích nhưng gọi vui sau lưng Thầy là “ Cao bồi hai súng” theo những
phim thời thượng bấy giờ. Thầy mà nghe được thì Thầy cho hai con Zéro to tướng
và trọi cho lủng trốt?! Qua đệ tứ học sách gì mà có “ A trip through America”
Thầy Tôn Thất Dinh vừa mới ra trường Sư Phạm về dạy Anh văn chúng tôi. Thầy
cao, gầy, mắt đen sâu, tỏa ra nét thông minh lanh lợi. Thấy nói tiếng Anh giọng
nhỏ, nhanh . Lên đệ nhị cấp chúng tôi học sách “ L’Anglais par la
conversation”. Thầy Nguyễn Đức Mai dạy Anh văn lớp đệ Tam rất sinh động. Thầy
nói tiếng Anh như nghe như người Mỹ. Nói trạng rứa chứ chúng tôi chỉ nghe người
Mỹ nói chuyện ...trong phim. Mấy bài học “ Down by parachute”, “Snake song”
thầy bắt học thuộc một đoạn dài và dịch nguyên bài dài thòng. Nguyễn Đình Toàn,
không biết nhờ ai dịch hay tự dịch, viết bài dịch trên giấy carô khổ lớn, trang
trí vẽ hình một người Ấn đội khăn, mặc áo choàng đang thổi kèn loa, phía trước
là con rắn hổ mang đang vươn mình chực mổ. Thầy Mai khen và cho 18 điểm.
Năm đệ nhị, Thầy Chu Trọng Thuyết dạy
công dân giáo dục làm giáo sư hướng dẫn. Các thầy Lâm Tài dạy Quốc văn, thầy Châu
khắc Túy dạy Toán, thầy Trần đình Bình dạy Lý hóa, thầy Nguyễn thanh Lộc dạy
Vạn vật, thầy Nguyễn văn Thường dạy Pháp văn, thầy Nguyễn văn Chương dạy Anh
văn, thầy Bùi ngọc Liên dạy Sử địa, thầy Lương Tấn Liêm dạy thể dục.
Năm đệ nhất,Thầy Nguyễn văn Thường
làm giáo sư hướng dẫn lớp tôi.Các Thầy Hoàng phủ Ngọc Tường dạy Triết, thầy Thái
Doãn Ngà dạy Toán, thầy Lê Vĩnh Kiến dạy Lý hóa, Thầy Nguyễn Ký hiệu trưởng
trường Quốc Học, dạy Vạn vật, thầy Nguyễn văn Chương dạy Anh văn, bà Lê thị
Liên, vợ thầy Lê Khắc Phò dạy sử địa, Thầy Nguyễn hữu Lành dạy Công dân giáo
dục.
Trong bài viết “ Suy nghĩ trong những
ngày nằm bệnh” Lê Hiếu Đằng, một người dấn thân theo cọng sản có 45 năm tuổi
đảng, đã công khai từ bỏ đảng cọng sản viết
những dòng tự sự như sau:
……“ tham gia phong trào đấu
tranh Sinh viên học sinh Huế lúc tôi còn học đệ nhị, đệ nhất Quốc học Huế và đã
từng bị bắt giam ở lao Thừa Phủ Huế gần một năm với Lý Thiện Sanh (nay là bác
sĩ định cư ở Úc). Vì chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó nghĩ tôi là thành viên
của Đoàn TN nhân dân Cách mạng Miền Nam. Nhắc đến đây tôi có một kỷ niệm khó
quên: ba tôi và mẹ Lý Thiện Sanh nóng lòng vì đã đến kì thi Tú tài II nhưng
chúng tôi vẫn bị nhốt trong tù. Vì vậy ông bà làm đơn hú họa xin hai chúng tôi
ra thi. Thế mà chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó lại giải quyết cho ra thi…
….Tôi không biết với chế độ gọi là “ưu việt” hiện nay có người tù nào đã
được cho ra đi thi như chúng tôi hay không?”.
Trong chuyện này, một người bạn học lớp đệ Nhất A1 là Bảo Lân nghe lời Thầy Hoàng Phủ
Ngọc Tường thay mặt học sinh toàn trường, viết đơn xin cho Lê Hiếu Đằng đang ở
tù ra thi Tú tài 2. Chuyện này thì Đằng không biết.
Đến kỳ thi Tú tài 2, khi đậu kỳ thi viết thì
thí sinh phải qua kỳ thi oral. Tôi ngồi dưới dãy bàn chuẩn bị vô oral trong
phòng Thầy Trần như Uyên. Hết người này người khác lên, tôi còn run nên chần
chừ. Bạn Thái thị Ngọc Dư, một học sinh rất giỏi của Đồng Khánh tự tin lên vấn
đáp. Bạn ấy nói tiếng Pháp trôi chảy như Tây. Thầy Uyên khen “Très bien” và cho
19 điểm. Tôi lại càng run. Chợt nghe bước chân rầm rập của các bạn học cùng lớp
đi theo Thầy Nguyễn văn Thường. Thầy nhìn vào và kêu “ Ê, Đoàn, ra đây” Tôi
mừng như thoát được một gánh nặng. Tới một phòng trống, Thầy kêu học sinh lên đọc
một đoạn trong quyển sách Mauger. Thế thôi. Bạn Huỳnh Công Lý được Thầy cho 16
điểm, còn chúng tôi cứ làng nhàng 12, 13 điểm thôi. Thầy dạy chúng tôi mấy năm
nên biết trình độ mỗi đứa rồi. Khỏe re.
* *
Như phần mở đầu có nói, đây là một
mảnh ghép trong bức tranh mosaic dạng panorama hoành tráng của trường Quốc Học.
Nói chừng nào cũng ít, viết chừng nào cũng thiếu.
Tôi trích dẫn một đoạn trong bài
viết “ Nhớ về một chặng đường” của Thầy Tôn Thất Dinh, giáo sư trường Quốc Học
từ khi ra trường đến lúc nghỉ hưu (1960-1997), Thầy dạy Anh văn lớp tôi năm đệ
Tứ. Đoạn văn nói lên cái lương tâm trong sáng của những Thầy Cô không riêng gì
trường Quốc Học mà chung cho Thầy Cô giáo trong trường lớp Miền Nam lúc đó.
“ Trong phòng giáo sư chỉ có một
khẩu hiệu duy nhất “Lương Sư Hưng Quốc”. Bốn chữ nói lên tâm nguyện sắt đá như
một tâm đức nhà giáo và mục tiêu giáo dục: dạy để cứu quốc và kiến quốc. Bốn
chử không thừa một chữ nào. Sư gắn liền với quốc. Rõ ràng ở thời quốc phá, gia
vong, kẻ sĩ chân chính có chung một ưu tư thao thức. Học giả Lê Quý Đôn từng lo
lắng như thế: Phi trí bất hưng, Không có trí thức thì đất nước sẽ lụn bại yếu
hèn. Hai điều học giả Lê Quý Đôn lo sợ nhất cho giáo dục là học trò khinh thầy
và kẻ sĩ quay lưng với thời cuộc.Các ân sư của chúng tôi đã nhìn chung một
hướng, đã ra công đào luyện thế hệ học trò không vô dụng.
Như một chuyện thần kỳ, năm 1956
một vị giáo sư tặng trường đôi liễng cẩn. Một lần, trường làm nơi tị nạn cho
đồng bào. Mưa gió lạnh lẽo dài ngày, đồng bào đã phá một số bàn ghế, vật dụng
bằng gỗ làm củi đun bếp. Bác cai Thâm kịp thấy một tấm liễng còn nguyên nằm
trên đống củi. Bác vác về cất trong phòng Hiệu trưởng. Sau này phòng giáo sư
chỉ treo một tấm liễng lẻ loi trong nhiều năm. Tấm liễng ghi một vế đối 8 chữ “
Quốc Học Thọ Nhân Bách Niên Chi Kế”. Có thể mất mát mọi thứ, nhưng cái công
trồng người của Quốc Học thì bất diệt. Tấm liễng ấy đã không thành tro bụi và
các thế hệ giáo sư Quốc Học sau đó vẫn treo nó để sóng đôi với khẩu hiệu “
Lương Sư Hung Quốc”. Hai câu bồi bổ cho nhau nói lên sứ mệnh cao cả của một
ngôi trường”.
Thầy nghĩ như thế, dạy với lương
tâm chức nghiệp như thế nên lứa học trò chúng tôi được hưởng một nền giáo dục
của trí tuệ và tấm lòng.
Những người muôn năm cũ :
Thế hệ học trò Quốc Học chúng tôi trên dưới 70 tuổi rồi. Có những bạn cùng lớp nhưng học trễ thì đã 74, 75 tuổi. Xưa thì nói tuổi chúng tôi là “cổ lai hy” nhưng chúng tôi tự cho mình là “người trẻ nhiều tuổi”.
Thế hệ học trò Quốc Học chúng tôi trên dưới 70 tuổi rồi. Có những bạn cùng lớp nhưng học trễ thì đã 74, 75 tuổi. Xưa thì nói tuổi chúng tôi là “cổ lai hy” nhưng chúng tôi tự cho mình là “người trẻ nhiều tuổi”.
Trong lứa học chung đệ nhất cấp,
nhiều người đã đi xa: Nguyễn văn Phúc B, Lê văn Khâm, Lê Thẻo, Nguyễn Nam, Trần
Duy Tích, Hồ Đắc Nhẫn, Lê văn Hiếu, Trần Đình Huyên, Hồ Đắc Đẩu, Lê Quang Bảo….Lứa học đệ nhị
cấp thì: Trần Đình Sào, Lê văn Phi, Bùi công Tuất, Xuân , Nguyễn Cảng …Chúng
tôi luôn nhớ đến các bạn ấy.
Học sinh đệ nhị cấp Quốc Học niên khóa 61-64 bây giờ do thời
cuộc, tản ra sống khắp nơi. Dù còn ở Huế hay vô Sài gòn, qua Mỹ, Úc, Canada hay
châu Âu bạn bè chúng tôi vẫn tìm cách liên lạc với nhau và kết nối với nhau rất
thân thiết.
Những người muôn năm cũ,
Hồn ở đâu bây giờ?
Ở nơi đây. Những ngày xưa thân ái. Tưởng chừng như đang dạo chơi trong sân trường Quốc Học.
Lê
Duy Đoàn.
Sài
gòn, 31/12/2013
Nói
thêm về "Phế Vua không Khả, đào mả không Bài" :
Ông Ngô Đình Khả cưới vợ thứ hai là
bà Anna Luxia Phạm Thị Thân, con gái ông Phaolô Huyên và bà Anna Bùi người làng
Vân Dương, tổng An Cựu (nay là thôn Vân Dương, xã Thủy Vân, thị xã Hương Thủy,
Thừa Thiên - Huế). Vợ chồng ông Khả bà Thân sinh được 9 người con (6 trai, 3
gái) thứ tự gồm: Ngô Đình Khôi (1893-1945); Ngô Thị Giao (1894 - 1946); Ngô Đình
Thục (1897- 1984); Ngô Đình Diệm (1901-1963); Ngô Đình Thị Hiệp (1903-2005);
Ngô Đình Thị Hoàng (1904-1959); Ngô Đình Nhu (1907-1963); Ngô Đình Cẩn (1910 -
1964) và Ngô Đình Luyện (1914-1990).
Ông Khả là một tín đồ Thiên chúa giáo thuần thành,
một Thị vệ Nhất đẳng đại thần dưới triều vua Thành Thái. Ông Khả là một người
có công trong việc vận động chính quyền đương thời ở Huế thành lập nên Trường
Quốc học Huế và là vị Chưởng giáo kiêm Quản giáo môn tiếng Pháp đầu tiên của
trường này trong giai đoạn 1896-1902. Bên cạnh đó, ông Khả còn là một nhân vật
rất tích cực trong việc vận động cho ra đời Trường Dòng tư thục Pellerin Huế mà
sau này người ta gọi đó là Trường La san Bình Linh.
Khi đang đương chức Thị vệ đại thần, ông Khả rất
nổi tiếng với vụ án công khai phản đối kịch liệt viên Khâm sứ Trung Kỳ Favin
Lévêque ép bức Vua Thành Thái thoái vị bằng việc không chịu ký vào tờ biểu do
thực dân Pháp bày ra để phế truất và lưu đày nhà vua đi biệt xứ..
Ông Nguyễn Hữu Bài, sinh năm 1863, quê ở làng Cao
Xá, tổng Xuân Hòa, phủ Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.
Năm 1908, ông Bài được phong chức Thượng thư Bộ
Công Năm 1923, ông Bài được phong Thái phó, Võ hiển điện Đại học sĩ, Cơ mật
viện trưởng đại thần.
Ông Bài là người phản đối quyết liệt với Khâm sứ
Pháp Mahé, khi ông này đòi đào lấy vàng bạc châu báu trong khu lăng mộ của Vua
Tự Đức.
Dân gian Huế có câu: "Phế Vua không Khả, đào
mả không Bài" là ý của người đương
thời muốn ngợi khen hành động của ông Khả và ông Bàì chống lại người Pháp.
………………………………………………………………………………………………
.