Chục mười tám.
Lê Duy Đoàn
Năm 1992, tôi quen biết ông Chung Yoo
Sop, một người Đại Hàn rất nhân hậu ,qua Việt nam tìm kiếm và tìm cách giúp đở
những đứa con lai sinh ra từ những mối quan hệ cha Hàn , mẹ Việt. Những người
cha Hàn quốc này có thể là những người lính trong các sư đoàn bộ binh Bạch mã, Mãnh
hổ hay lữ đoàn thủy quân lục chiến Rồng xanh của Đại Hàn, lực lượng quân đội nước
ngoài tham chiến đông đảo chỉ sau Mỹ trong chiến tranh Việt nam. Một số người cha
Hàn quốc này làm công nhân cho hảng RMK của Mỹ xây dựng đường sá quốc lộ hay tỉnh
lộ theo kỷ thuật làm nền và tráng nhựa hiện đại nhất của Mỹ lúc đó. Một số qua
Việt nam mở các cửa hàng bán đồ gia dụng, thực phẩm, gia vị, thức ăn của người
Hàn vì người Hàn quốc rất bảo thủ trong vấn đề ẩm thực. Năm 1973, khi hiệp định
Paris được ký kết, Mỹ rút quân về nước, người Đại Hàn cũng rút theo. Những người
phụ nữ Việt lấy chồng Hàn( hầu hết không chính thức) ở lại Việt nam nuôi những
đứa con lai. Bây giờ ông Chung qua Việt nam tìm những người vợ có chồng Đại Hàn
và con lai của họ để dạy tiếng Anh, tiếng Hàn và dạy nghề . Có những hội đoàn
Tin lành tài trợ cho việc này. Những người Hàn có lương tâm thấy những dấu vết xấu
xa và những ám ảnh ghê rợn mà dân tộc họ để lại trên đất nước Việt nam sau khi
họ rút về nước là những vết nhơ và những chuyện đau buồn nên họ tìm cách hàn gắn
và chuộc lổi. Không biết ông Chung nói có thật lòng hay không là khi qua Việt
nam có hai lần ông khóc. Lần thứ nhất là năm 1967, ông khóc vì tủi cho đất nước
của ông. Sao một đất nước cũng chia cắt như đất nước của ông mà Việt nam phát
triển vượt trội như thế ?! Lần thứ hai ông khóc là vào năm 1990, ông buồn vì
thương cho người Việt và đất nước Việt nam sao lại thụt lùi, lạc hậu và người dân
nghèo khổ như vậy.
Theo
lời giới thiệu của ông Chung ,tôi làm đại diện giao dịch cho ông Lee Duk Kon, Tổng
giám đốc Công ty Seoul Industrial Company, Ltd của Đại Hàn có văn phòng ở thủ
đô Seoul. Ông Lee trắng trẻo, cao to, vai rộng, khuôn mặt quắc thước, phong
thái trí thức. Giọng ông nhẹ, nhã nhặn, luôn nói những lời mềm mỏng tôn trong khác hẳn với đa số
người Hàn quốc qua Việt nam lúc đó.
Ông
Lee qua Việt nam tìm nguồn cung cấp và
xuất khẩu chuối già lùn, già hương sang thị trường Đại Hàn. Lúc đó, chuối hiện đang
nhập khẩu vào thị trường Đại Hàn là giống chuối có vỏ màu vàng tươi (chuối bom)
hầu hết đều từ các nông trường trồng chuối ở các nước Nam Mỹ như Perou,
Ecuador… Không biết lấy thông tin từ đâu mà ông Lee biết hương vị chuối Việt
nam hơn hẳn chuối Nam Mỹ. Ở Seoul, một
trái chuối Nam Mỹ có giá 1 đô la, chuối già Việt nam một trái phải trên 1 đô la
trong khi mua ở Việt nam một nải chuối
chưa đầy 1 đô la. Thế là ông qua Việt nam để xuất khẩu chuối.
Những
năm đó, Liên Xô và khối cọng sản Đông Âu đã sụp đổ, Việt nam mở cửa nền kinh tế. Các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt nam thăm
dò, tìm kiếm cơ hội làm ăn, mua bán. Người Đại Hàn và người Đài Loan nhanh chân
hơn hết.
Chúng
tôi chọn công ty Fataco, một công ty dịch vụ và xuất nhập khẩu của tỉnh Bến tre
làm đối tác. Bến tre cũng giống hầu hết các tỉnh ở đồng bằng Nam bộ, có những
vùng đất phù sa màu mỡ ven sông Tiền, sông Hậu, những cồn bãi hoa màu tươi tốt.
Đây là vùng nguyên liệu rất phong phú.
Ông
Lee chỉ là một người kinh doanh không có kinh nghiệm. Ông không lường trước mọi
điều liên quan đến việc xuất khẩu chuối trong điều kiện quá nhiều rủi ro khi
làm ăn với Việt nam. Ngay chuyến đầu tiên xuất 8 containers chuối sang Đại Hàn,
tất cả đều hư thối phải thuê đổ bỏ bên ngoài phao số không ở cảng Busan ( họ gọi
chuối hư thối đó là tông(1) banana). Sau này tôi mới biết, hảng tàu đã không
thông tin đầy đủ về lộ trình và thời
gian vận chuyển. Chuyến hàng thay vì đi từ Sài gòn qua tới Đại Hàn mất từ 7 đến
10 ngày thì lại trung chuyển qua Singapore nên mất cả tháng. Lại nữa, những hảng
tàu lúc đó hoạt động còn hạn chế vì lịnh cấm vận của Mỹ chưa được giở bỏ, hàng
xuất khẩu ít nên tàu chất hàng ở nhiều địa phương khác nhau ,phải bốc dở nhiều
nơi nên chuyến tàu trễ nãi. Lúc đó trình độ dân Việt nam làm hàng xuất khẩu còn
kém, container lạnh không bảo đảm nhiệt độ ổn định,thời gian vận chuyển trên biển
lại quá lâu. Hàng đóng trong thùng carton thoáng, có bao nilon đục lổ nhưng chất
hàng không thoáng nên chuối chín sớm.Một trái chín kéo lây chuối trong cả thùng
carton chín theo và cứ như thế kéo dây
chuyền cả container đều chín. Tất cả những yếu tố đó biến những container chuối
già hương hàng tuyển, độ chín tới 80% thành một đống “ tông banana” thúi hoắc.
Ông Lee mất trắng cả chuyến hàng và bỏ cuộc.
Nhiều
công ty Đại Hàn vẫn tiếp tục qua Việt Nam tìm kiếm cơ hội xuất khẩu chuối.
Những
người này quen và biết hoạt động của ông Chung, giúp tiền bạc để mua cho các
cháu con lai xe đạp và tài trợ gia đình các em khó khăn. Họ cũng nhờ ông Chung
tìm những vùng đất màu mỡ ở miền Tây để đầu tư trồng chuối và thu hái xuất khẩu
theo dự tính hình thành một dây chuyền khép kín giống như mô hình xuất khẩu chuối
của các nước nam Mỹ.
Ông
Chung nhờ tôi đi một chuyến về các tỉnh
miền Tây để tìm hiểu những thổ sản nông nghiệp có thể xuất khẩu được, đồng thời
kiếm những vùng đất chuyên canh cây chuối ở các tỉnh miền tây.
* *
*
Lúc
đó vào dịp hè, các con tôi được nghỉ học. Tôi rủ vợ tôi đi miền tây một chuyến
cho biết. Hai chúng tôi đèo nhau trên chiếc xe gắn máy Dream khởi hành từ sớm
tinh mơ. Đường quốc lộ còn khá tốt, xe cộ lưu thông thưa thớt, nạn cướp bóc
không có rộ lên như sau này nên chuyến đi an toàn và rất thú vị.
Chúng tôi đi một lèo từ
Sài gòn đến gần ngã ba Trung lương, ghé vào nhà người bà con làm việc ở Công ty
Địa chất 88 lúc trời vừa hửng sáng. Đường đi dày đặc sương mù. Khi dừng xe vào
nhà, chúng tôi nhìn nhau và cùng cười rộ. Mặt người nào cũng đầy nhọ vằn vện
như quệt nhọ nồi. Thì ra, những vẩn bụi li ti trôi nổi cùng sương sớm,nên khi
chúng tôi đi trong màn sương, chúng tôi đã hứng trọn bụi bặm trong không khí mà
không hề hay biết. Ngó qua ngó lại hai khuôn mặt như ma trơi.
Trong
bốn ngày chúng tôi đi xe gắn máy qua các tỉnh Tiền giang, Bến tre, Vĩnh long, Sóc
Trăng, Cần thơ, An giang và Đồng tháp. Ba đêm ngủ lại ở Vĩnh long, Cần thơ và
Sa đec thật ấn tương và vô cùng thú vị. Nói là đi tìm vùng nguyên liệu xuất
khẩu nhưng chúng tôi kết hợp công việc nghiên cứu thực địa với việc tranh thủ
đi chơi cho biết những địa danh nổi tiếng ở những tỉnh mình đi qua vì đây là
một dịp hiếm hoi trong đời.
Ở
đây tôi chỉ nói đến chuyện đi chơi, không kể chuyện nghiên cứu .
Bây giờ người ta vẫn quen miệng
nói Nam kỳ lục tỉnh nghĩa là toàn Nam bộ chỉ có 6 tỉnh. Đó là tên gọi miền Nam Việt Nam thời nhà Nguyễn
độc lập, tức là khoảng thời gian từ năm 1832 (cải cách hành chính của vua Minh Mạng) cho tới năm 1862 (khi Pháp chiếm 3 tỉnh Miền Đông) và năm 1867
(khi Pháp chiếm nốt 3 tỉnh Miền Tây) . Sau thời điểm đó,
Pháp xóa lục tỉnh và chia Nam bộ ra thành nhiều tỉnh rồi. Tên gọi lục tỉnh không còn đúng và không còn ý nghĩa. Lúc chúng
tôi đi về miền tây thì miền tây Nam bộ đã chia ra thành 12 tỉnh.(mời đọc chú
thích bên dưới bài viết(2).
Nhà của bà O ruột
của vợ tôi ở gần ngã ba Trung Lương nằm trong khu ở tập thể của công ty địa
chất 88 . Chúng tôi gửi ba lô, túi xách để đi chơi cho gọn nhẹ. Hai vợ chồng O
dượng cùng tốt nghiệp kỷ sư ngành dầu khí ở Tiệp khắc nhưng lúc về Việt nam
ngành dầu khí đang phôi thai nên phải chuyển qua ngành thăm dò địa chất. Công
ty này thăm dò địa chất thì ít mà khai thác nước ngầm là chính vì những vùng xa
thành phố không có nước sạch, mà nước sông, kênh rạch ở các tỉnh nam bộ hầu hết
đều bị chua phèn,đến mùa nắng nóng đôi khi nhiễm mặn. Mỗi nhà đều để nhiều lu
vại để đựng nước lắng phèn. Khoan nước ngầm là nghề tay trái nhưng lại tăng thu
nhập rất nhiều cho cán bộ nhân viên công ty.
Cơ ngơi của công ty là 3 dãy nhà liên kế xếp thành hình chữ
U, nhà trệt cột gỗ,vách ván mái lá cửa nẻo đơn sơ.
Trong khuôn viên rộng rãi hơn hecta của công ty có hai nơi đặc biệt: vòi
nước giếng khoan và cầu tỏm .
Một vòi nước giếng khoan nước ngầm với tầng nước ngầm sâu
đến 50 mét chảy liên tục dòng nước ngọt trong vắt và ấm khoảng 37-38 độ C.Dân
quanh vùng mang thùng đến lấy nước thoải mái. Ngồi tưới tắm dưới vòi nước ấm
hàng giờ vẫn không thấy ngán. Thật là một trải nghiệm thú vị.
Một cái ao cá tra rộng khoảng 150 mét vuông hứng nước thừa chảy
từ vòi nước giếng khoan chảy vào liên tục. Chúng tôi nói đùa là cá nhiều hơn
nước. Những con cá to dài mình đen nháy chen vây với nhau lượn lờ chờ đợi. Trên
ao cá là một cái cầu tiêu đôi dã chiến được chống đở bởi bốn cột gỗ ọp ẹp lắc
lư trên ao, từ bờ ao đi ra là cái cầu ván lắc lẻo ( chúng tôi gọi đó là cầu
tỏm). Cầu che tạm bợ xung quanh bằng
những miếng ván đầu thừa đuôi thẹo hở trên trống dưới và che cao chưa tới bẹn
nên đứng ngoài xa người ta vẫn có thể thấy “cầu sĩ” là ai. Thành ra, hai “cầu sĩ”có thể thấy mặt nhau và rôm rả nói
chuyện với nhau thoải mái trong khi làm chuyện “tứ khoái”. Ngồi trong tư thế
như vậy người Huế nói là thấy“dị òm” chứ người Nam thì cứ “tự nhiên như người
Hà lội”.
Khắp Nam bộ lúc đó dân chúng làm “cầu tỏm” trên ao hồ hay
ven sông rạch và cứ thoải mái “gần gũi với môi trường”. Ít nhà có cầu tiêu tự
hoại.
Đi tới đâu chúng tôi cũng hỏi những người dân địa phương
những danh lam thắng cảnh đặc trưng và những đặc sản ẩm thực của vùng đó .
Dạo quanh thị xã Mỹ tho một vòng qua mấy đường phố mất
khoảng mươi phút. Thị xã nhỏ nhắn, đường
phố còn nhỏ hẹp, cây cối hai bên đường phủ che bóng mát, Thị xã nhỏ , người dân
hiền hòa thân thiện như thành phố Huế hay thị xã Hội an.
Chúng tôi ra đường Trưng Trắc tìm quán hủ tiếu điểm tâm. Hủ
tiếu Mỹ tho thì đã quá nổi tiếng từ lâu rồi.
Hủ tiếu nguyên là món ăn gốc từ người Triều Châu,
mang vào Ðàng Trong được người mình Việt hóa. Người Tiều phát âm là
“củi tiểu” hay “củi thiểu” và người mình đọc trại ra là “hủ tíu” rồi “hủ tiếu”
như ngày nay.
Không ai biết hủ tiếu
có mặt ở Việt Nam vào lúc nào, nhưng chắc một điều là nó có mặt sau khi người
Hoa được các chúa Nguyễn cho vào định cư ở phía Nam. Ðặc biệt là kể từ khi
Thống Suất Nguyễn Hữu Cảnh vào lập xứ Ðông Phố, cho người Tàu cư ngụ ở
Trấn Biên (Biên Hòa) lập ra xã Thanh Hà, và người Tàu ở Phiên Trấn (Saigon
& Gia Ðịnh) lập ra xã Minh Hương.
Hủ tiếu sau khi vào miền Nam được người
mình đón nhận, biến cải để hợp với cái mỹ vị, nghệ thuật ăn uống của con người
ở đây. Hủ tiếu Tiều có mặt ở Ðàng Trong theo như lịch sử của Saigon thì đã trên
300 năm, không ngừng cải tiến, phục vụ cái sở thích ăn ngon của
người địa phương, dần dà hủ tiếu Tiều trở thành hủ tiếu Việt; mà tiếng tăm vang
lừng như: Hủ tiếu Nam Vang, hủ tiếu Sa Ðéc và nhứt là hủ tiếu Mỹ Tho.
Ở Mỹ
tho còn có một món hủ tiếu với
cách chế biến hoàn toàn khác nhưng
cũng ngon miệng không kém hủ tiếu Mỹ tho là hủ tiếu sa tế , có gốc
gác từ người Hoa.
Chúng tôi vào một quán ăn của một người Việt gốc Hoa trên
đường Trưng Trắc bên bờ sông Bảo Định, ( người
địa phương nói là những tiệm ăn san sát trên đường này mới đúng là hủ tiếu Mỹ Tho chánh gốc) nơi chúng tôi có thể gọi 2 loại hủ tiếu Mỹ tho và hủ tiếu
sa tế để ăn thử cho biết.
Hai loại hủ tiếu Mỹ tho và hủ tiếu sa tế đều dùng cùng một
loại sợi bánh khô nhưng khác nhau ở nước dùng: Hủ tiếu Mỹ tho dùng nước lèo, hủ
tiếu sa tế dùng nước xốt nên hương vị khác nhau.
Sợi bánh
hủ tiếu Mỹ Tho là loại bánh khô, được chế từ gạo thơm địa phương như gạo Nàng
Hương, gạo Nanh Chồn hay gạo Nàng Thơm Chợ Ðào (gạo ngon số một). Hiện nay có hai
trung tâm sản xuất bánh hủ tiếu khô nổi tiếng (loại hủ tiếu Mỹ Tho): Một ở thị
trấn Mỹ Tho và một ở Gò Công, sản xuất hầu hết hủ tiếu khô Mỹ Tho cung cấp cho
cả nước.
Sợi hủ tiếu Mỹ Tho do vậy có mùi thơm
của gạo, trụng nước sôi thì mềm nhưng không bở, nhai nghe dai dai, nên gọi là
hủ tiếu dai, ăn không có mùi chua. Sau khi trụng, cho vào tô, trộn với ít mỡ
hành phi, nhìn sợi hủ tiếu trong bóng, ẩn đục bên trong nhìn rất bắt mắt.
Nước lèo chan
vào tô hủ tiếu nấu bằng thịt và xương ống nguyên chất, đặc biệt là có thêm tôm khô, khô mực nướng
và củ cải trắng, củ cải đỏ nên vị thanh tao vô
cùng
Các món phụ gia góp phần làm tô
hủ tiếu Mỹ Tho thêm hấp dẫn là giá sống, chanh, ớt, hẹ, nước tương còn có thêm rau cần.Nhìn tô hủ tiếu Mỹ Tho nấu với thịt heo bầm, có điểm con tôm thẻ, lột
xẻ đôi, thêm đồ lòng heo, sườn heo và trứng cút nữa, tô hủ tiếu Mỹ Tho như vậy quả không thấy hơi hám gì của người Tàu
nữa cả, mà rặc là hủ tiếu theo
phong cách nam bộ Việt
Nam.
Còn tô hủ tiếu sa tế lại có vị Tàu đặc trưng. Tôi
nghe là việc nấu nước sốt sa tế không hề đơn giản. Đầu tiên hầm nồi nước lèo
bằng xương bò cho thật đậm, Tiếp đó, pha sa tế với các loại gia vị như
tỏi, hành tím, gừng, sả, đại hồi, tiểu hồi, quế, ớt khô, ớt bột, đậu phộng rang
giã nhuyễn, mè rang… xào với dầu mè. Sau đó, cho hỗn hợp đã chế biến vào nước
hầm bò và nêm lại gia vị. Ăn hủ tiếu sa tế
ta cảm nhận vị ngọt đậm đà của nước hầm xương, vị thơm thơm cay cay của
ngũ vị hương hòa trong vị chua chua của khế, hương thơm của mè, đậu phộng, húng
quế... tất cả hoà lẫn tạo thành một mùi vị rất riêng cho món ăn đặc trưng của
người Hoa
Quả thật ở Mỹ Tho, có sự khác biệt rõ ràng giữa 2 tô
hủ tiếu Việt và hủ tiếu Tàu.
Điểm tâm xong, chúng tôi lên đường thẳng đến thăm
chùa Vĩnh Tràng. Chùa là ngôi tổ đình của dòng Lâm Tế – Trí Huệ .Vĩnh Tràng
không chỉ là ngôi chùa lớn nhất tỉnh Tiền Giang mà còn là ngôi cổ tự danh tiếng
bậc nhất ở miền Nam. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa vốn là một thảo am do ông Tri
huyện Bùi Công Đạt xây cất vào khoảng đầu thế kỷ XIX. Đến năm 1849, Hòa thượng
Thích Huệ Đăng trụ trì chùa đã tổ chức xây dựng thành ngôi đại tự và đặt tên là
chùa Vĩnh Tràng. Chùa đã trải qua nhiều lần hư sập, trùng tu mới mang dáng vẻ
kiến trúc châu Á pha lẫn châu Âu đẹp đẽ và hoành tráng như ngày nay.
Rời chùa, chúng tôi thẳng đến bến phà
Rạch Miễu bắt qua sông Tiền, nối Bến Tre và Mỹ Tho. Đó là bến phà khá hiện đại, do có Đan Mạch tài trợ đóng các phà mới.
Bến phà Rạch Miễu (hay bến phà Tân Thạch) nằm trên quốc lộ 60 nối liền 2 tỉnh Tiền Giang
và Bến Tre,
với bờ phía Tiền Giang đặt tại phường 6, thành phố Mỹ Tho,
và bờ phía Bến Tre đặt tại xã Tân Thạch, huyện Châu Thành. Rạch Miễu là một thị tứ ở bờ phía Bến Tre.
Đường thủy đi ngang qua sông Tiền của phà Rạch Miễu dài
khoảng 3,2 km, đi vòng qua cồn Phụng
và cồn Thới Sơn. Chờ phà hơi
lâu. Phà đi qua tới bờ bên kia cũng phải mất đến nửa giờ. Gió trên sông lồng
lộng đưa hương đồng gió nội phả vào người mát rượi như thổi đi những phiền muộn
đời người.
Chúng tôi dự tính đi những điểm tham quan xa trước, gần
sau. Thế là chúng tôi vội vã lên xe dông
tuốt đến tận Ba Tri rồi Bãi Ngao là huyện lỵ ven biển của Bến Tre.
Con đường từ thị xã Bến Tre về Ba Tri dài đến 35 km chỉ là
đường đất rộng chưa tráng nhựa, vắng xe cộ đi lại, thỉnh thoảng mới có một
chiếc xe khách cũ kỹ chạy qua tung bụi mù trời. Dọc hai bên đường là cả một
rừng dừa xanh tốt, nhà cửa thưa thớt, nghèo nàn.
Thị Trấn Ba Tri là nơi an nghỉ của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Xã Bảo Thạnh của huyện Ba Tri
là quê hương của Phan Thanh Giản (vị tiến sĩ
đầu tiên của Nam Kỳ), đồng thời còn là nơi an nghỉ của xử sĩ Võ Trường Toản. Cả ba người đều là danh nhân Nam
Bộ.
Sau khi dạo quanh chợ Ba Tri, chúng tôi đến viếng khu lăng
mộ nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), cách thị trấn Ba Tri
chừng 1km trên đường về An Đức.
Khu lăng mộ được xây dựng
vào năm 1972 có quy mô nhỏ, gọn nhưng trang trọng với nhiều cây cao bóng mát.
Nguyễn đình Chiểu là người
gốc Huế từng sống và học hành ở Huế từ 12 đến 19 tuổi.Cha ông tên Nguyễn
Đình Huy, người xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, (nay là xã Phong
An, huyện Phong Điền, Thừa Thiên-Huế), là thư lại Văn hàn ty của Tổng trấn Lê
Văn Duyệt. Mẹ là Trương Thị Thiệt, người làng Thanh Ba, huyện Phước Lộc, huyện
Cần Giuộc, tỉnh Gia Định.
Trong truyện Lục Vân Tiên có vài chi
tiết giống cuộc đời ông
( Đời thật)…Năm 1843 ông đỗ Tú tài ở
trường thi Gia Định, đúng vào năm 21 tuổi. Khi ấy, có một nhà họ Võ hứa gả con gái cho ông.
Năm 1847 ông ra Huế học để chờ thi khoa Kỷ Dậu 1849. Nhưng chưa kịp thi thì được tin mẹ mất tại
Sài Gòn (1849). Trên đường trở về
chịu tang mẹ, vì thời tiết thất thường, vất vả và khóc thương nhiều nên ông bị
bệnh rồi mù cả đôi mắt. Trong thời gian nghỉ lại Quảng Nam chữa bệnh, tuy
bệnh không hết, nhưng ông đã được vị danh y truyền dạy nghề thuốc.
Đui
mù, mất mẹ, hôn thê bội ước, cảnh nhà sa sút... ông đóng cửa chịu
tang cho đến năm 1851, ông mới mở trường dạy học và làm thuốc.
(Lục Vân Tiên)…Sau khi về nhà thăm cha mẹ, Vân Tiên cùng tiểu đồng lên đường
đi thi, ghé thăm Võ Công, người đã hứa gả con gái là Võ Thể Loan cho chàng. Lúc sắp vào trường thi, Vân Tiên nhận được tin mẹ mất, liền bỏ thi trở
về quê chịu tang. Dọc đường về, Vân Tiên đau mắt nặng, rồi bị mù cả hai mắt,
lại bị Trịnh Hâm lừa đẩy xuống sông. Nhờ giao long dìu đỡ đưa vào bãi, Vân Tiên
được gia đình ông ngư cứu mạng. Sau đó chàng lại bị Võ Công khinh rẻ và bị Võ Thể Loan gạt bỏ vào hang núi Thương Tòng.
Ngày 3 tháng 7 năm 1888, ông mất tại
Ba Tri, Bến Tre. Người ta kể lại rằng ngày đưa đi an táng, cả cánh đồng An Bình
Đông, nay là An Đức, trắng xóa khăn tang của những người mến mộ và thương tiếc ông.
Trong nhà tưởng niệm , ngoài tượng và bài vị thờ cụ Đồ Chiểu, còn có treo
tranh vẽ chân dung của các vị anh hùng dân tộc như Trương Định, Thủ Khoa Huân,
Võ Duy Dương, Nguyễn Trung Trực, Phan Tòng, Lê Quang Quan... và trích đoạn những
tác phẩm văn học nổi tiếng của cụ Đồ.
Phía sau, bên trái nhà tưởng niệm là phần mộ của cụ Đồ với
phu nhân. Gần bên đó là nơi yên nghỉ của nữ sĩ Sương Nguyệt Anh (bút hiệu
này có nghĩa là bà Nguyệt Anh góa chồng) . Tên thật của bà là Nguyễn thị Khuê, con gái thứ tư của cụ
Nguyễn Đình Chiểu. Bà là nhà thơ và là chủ bút nữ
đầu tiên của Việt Nam. Tờ báo Nữ
giới chung do bà phụ trách là tờ báo đầu tiên của phụ nữ được xuất bản tại Sài Gòn[ rất nổi tiếng vào đầu thế kỷ trước.
Tới Bãi Ngao chúng tôi chỉ thấy bờ chứ không thấy bãi nào
hết. Sóng biển đục ngầu phù sa vổ bờ, xâm thực bờ thành từng hàm ếch. Cảnh vật vắng lặng nhuốm màu “thương
hải tang điền”. Chỉ có tiếng sóng biển vổ bờ rì rào,rì rào…
Về lại thị xã , chúng tôi ghé vào chợ Bến Tre kiếm trái sầu
riêng Cái Mơn về ăn và làm quà biếu O Dượng.
Cái Mơn thuộc xã Vĩnh Thành – huyện Chợ Lách - tỉnh Bến
Tre. Từ thành phố Bến Tre qua cầu Hàm Luông, men theo QL 57 đến Cái Mơn khoảng
21km. Đặc biệt, đặc sản trái cây nổi tiếng nhất là loại sầu riêng cơm vàng, hạt
lép có hương thơm ngào ngạt nổi tiếng trong và ngoài nước.( Cái: từ cổ là con
rạch. Mơn, theo ý kiến của một linh mục phụ trách lâu năm ở họ đạo Cái Mơn, là
do nói trại từ khmum (tiếng khmer có nghĩa là mật ong).
Đến bây giờ vẫn chưa có
tư liệu chính thức nào ghi chép lại nguồn gốc, xuất xứ của giống sầu riêng đặc
biệt này nhưng theo truyền miệng, loại quả lạ này xuất xứ từ Campuchia, do ông
Nguyễn Duy Lưu (1857- 1947) một thầy dạy Nho học ở Cái Mơn, rất yêu thích công
việc trồng trọt. Vào khoảng năm 1910 ông được mời sang Campuchia để dạy học cho
con cái Hoàng gia. Tình cờ ông thưởng thức được loại trái lạ, có mùi vị rất đặc
trưng. Khi ăn thì vị ngọt thanh kết hợp với mùi thơm lừng làm những ai lần đầu
tiên thưởng thức cũng phải nhớ mãi không quên. Ông Lưu đưa giống cây lạ này về
trồng trên mảnh vườn nhà tại Cái Mơn (xã Vĩnh Thành – Chợ Lách) và đặt tên là
“sầu riêng sữa bò”. Sầu riêng sữa bò của ông Lưu chỉ cho trái vào mùa hè, vào
tháng 5, đến tháng 7 dương lịch. Trái khi chín vẫn xanh ngắt, mỏng vỏ, gai
thưa, khi chín múi lớn vàng ươm, có vị ngọt dịu và béo ngậy như sữa, hương thơm
thì ngào ngạt. Đặc biệt, là đúng 12 giờ trưa hay nữa đêm, khi trái tự rụng
xuống thì mới chịu chín. Vô phúc cho đôi trai gái nào ngồi tình tự dưới gốc cây
sầu riêng vào giờ đó?! Tiếng đồn về một giống trái ngon có vị lạ bay xa, đến
mùa thu hoạch, nhiều người trong và ngoài tỉnh Bến Tre hiếu kỳ tìm đến vườn ông
Lưu để thưởng thức trái lạ và xin giống về trồng.
Người dân Bến Tre lúc đó rất thật thà, họ nói sầu riêng Cái
mơn cơm vàng hạt lép là đúng y chang. Chỉ có giá là cao gấp đôi những loại sầu
riêng khác.
Trở lại bến phà, chúng tôi gửi xe trên bờ bến thuyền chuyên
chở khách qua Cồn Phụng. Cồn Phụng là một trong bốn cù lao trên sông Tiền, lấy
tên linh vật ( Long, Lân( cồn Thới sơn), Quy, Phụng).Bến thuyền nằm cạnh bến
phà. Sóng vổ mạn thuyền lách bách. Thỉnh thoảng những chiếc tàu lớn đi dọc sông
đẩy những đợt sóng lớn làm con thuyền chao nghiêng.
Lên bờ chúng tôi đi quanh một vòng thăm thú những dấu tích
còn lại của ông Đạo Dừa.
Ðạo Dừa
do ông Nguyễn Thành Nam sáng lập. Ông xuất thân trong một gia đình khá
giả ở huyện Châu Thành, qua du học ở Pháp lấy được bằng kỹ sư hóa học. Sau một
thời gian sản xuất xà phòng không thành công, ông bỏ lên núi tu khổ hạnh, mỗi
ngày chỉ ăn một lần vào giờ ngọ bằng rau và hoa quả và uống nước dừa xiêm. Một
năm sau, từ núi, ông về lại Bến Tre, dựng một túp lều ở mỏm cù lao Tân Long vào
năm 1952. Sau mấy tháng hoạt động, thấy bất tiện, ông về quê ở ấp I, xã Phước
Thạnh, huyện Châu Thành, mua một xà lan nhỏ, đậu bên mé sông Ba Lai và dựng một
lều cao trên một mẫu vườn dừa, rồi ngồi tu "tịnh khẩu". Kỹ sư Nguyễn Thành Nam bắt đầu xưng giáo chủ
của một đạo lấy tên là "Đạo Dừa".
Nhận thấy địa điểm nói trên có nhiều điều
bất lợi, ông Nguyễn Thành Nam chuyển toàn bộ cơ sở về mũi Cồn Phụng thuộc xã
Tân Thạch (nằm bên tuyến phà Rạch Miễu hiện nay). Tại đây, ông đặt mua một xà
lan lớn có sức chứa hàng trăm tấn, thiết kế làm ba tầng đưa về neo đậu bên một
khu đất, trên đó xây dựng một số tháp, đài, nhà khách, vườn hoa...
Bây giờ, khách qua lại bến phà Rạch Miễu vẫn còn thấy một
số công trình xây cất ,vết tích còn lưu lại của đạo Dừa.
Hiện nay, chiếc xà lan làm nơi hành đạo của ông Nguyễn
Thành Nam được đưa về làm khách sạn nổi trên sông Bến Tre ở thị xã, còn cơ sở
xây cất ở cồn Phụng được biến thành nơi nghỉ dưỡng và là một địa chỉ du lịch để phục vụ công
chúng và du khách .
Chúng tôi dùng cơm trưa ở nhà hàng gần khu kiến trúc của ông
đạo Dừa.
Trong bảng thực đơn có hầu hết những món ăn dân dã của miệt
vườn miền Tây như: món cá tai tượng chiên xù, hấp nước dừa, nước nắm; lẩu mắm;
cá kho tộ; ốc nướng tiêu; lươn hấp muối, lươn um dừa lá cách, bắp chuối; cháo
gà ta thả vườn, gà nướng lu, lẩu gà nòi hầm sả; các món ăn biến tấu từ chuột
dừa; xôi chiên phồng; bánh xèo; đuông dừa chiên bơ, chiên nước nắm; các món ăn
chế biến có nước cốt dừa.
Ngồi dưới bóng mát những tán cây trên bờ cù lao Phụng, nhìn
những chuyến tàu thuyền xuôi ngược và qua lại trên sông Tiền, hưởng làn gió mát
từ sông lên, chúng tôi ăn một dĩa đuông dừa chiên bơ uống bia và thưởng thức cái
lẩu mắm là bửa ăn đậm đà hương vị ẩm thực Nam bộ.
Về lại nhà ở tập thể của O Dượng trong khuôn viên công ty
địa chất 88, tắm vòi nước nóng để xua bụi đường và tan mệt nhọc, chiều chúng
tôi lên đường về Vĩnh long.
Chúng tôi theo quốc lộ I qua các huyện Châu Thành, Cai lậy,
Cái bè đến bến phà Mỹ thuận. Bến phà nối Tiền Giang với Vĩnh Long, hai bờ cách
nhau chừng 1 km. Bờ bắc, bờ nam mặc dù là hai tỉnh khác nhau nhưng đều có tên
là Mỹ Thuận. Lên bờ đi 9 km thì đến thị xã Vĩnh Long. Chúng tôi ở lại khách sạn
Cữu Long, số 1 đường 1/5, thị xã Vĩnh Long. Khách sạn có vị trí nhìn ra ngã ba
sông rất đẹp, tiện nghi khá tốt.
Buổi chiều, đi tản bộ trên bờ sông hóng ngọn gió lành chúng
tôi cảm thấy thích thú vô cùng. Nhìn qua bên kia sông, những rừng dừa tít tắp.
Tà tà đi đến chợ chúng tôi tìm mua cho được hai loại trái cây đặc biệt của Vĩnh
Long là bưởi Năm Roi và sầu riêng Sáu Ri.
Giống bưởi Năm Roi do ông Trần Văn Bưởi (1918 - 1990) người
làng Mái Dầm (nay thuộc xã Phú Hữu A, huyện Châu Thành, Hậu Giang)
tìm thấy. Sinh thời, ông Bưởi làm nghề buôn bán trên sông. Một tối ông ngủ lại
trên ghe bầu ở Tân Châu (vùng Châu Đốc thuộc tỉnh An Giang thời Pháp thuộc) thì
vô tình nhặt được một trái cây trên sông. Trái cây da có màu xanh, ruột màu
vàng ươm. Xẻ ra nếm thử thấy vị ngon, mọng nước ông Bưởi rất thích. Ông lấy hột
mang về quê Phú Hữu (chợ Mái Dầm) để trồng.
Sau khi giống bưởi này được phổ biển khắp vùng quê ông Trần
Văn Bưởi, người các nơi khác cũng đến xin giống cây về trồng. Ngày nay, bưởi
Năm Roi được trồng nhiều nhất là ở Phú Hữu, Châu Thành, Hậu Giang và huyện Bình Minh, Vĩnh Long.
Có thể nói chỉ có hai nơi này là trồng bưởi Năm Roi chất kượng nhất. Cây ít bị
sâu bệnh, trái ngọt và to.
Tương truyền, sợ con cháu trong nhà hái trái làm mất giống
cây quí nên ông Bưởi đe: "Đứa nào mà hái trái cây của ông Bưởi là ông đánh
năm roi nghe chưa". Vì câu nói của ông, giống bưởi có tên gọi là "Năm
Roi". Bưởi năm roi có tên gọi từ đó.
Còn sầu riêng Sáu Ri là lấy tên theo tên ông Sáu Ri
ở ấp Phước Định 1, xã Bình Hòa Phước, huyện Long Hồ, Vĩnh Long, từ những
năm đầu thập niên 1990 đã nổi tiếng là người tiên phong trồng và cho ra
trái một giống sầu riêng mới: cơm vàng, khô ráo, cầm không dính tay; hạt lép,
vị ngọt, mùi thơm. Loại sầu riêng này có phần ngon hơn. sầu riêng Cái Mơn bên
Bến Tre.
Đi một ngày thấm mệt, chúng tôi vào giấc ngủ sâu cho đến
sáng. Khách sạn bao luôn bửa ăn sáng trong giá phòng chúng tôi dùng điềm tâm
cũng với món hủ tiếu Nam vang,
Chúng tôi đi vô chợ kiếm trái dừa sáp dùng thử cho biết.
Đây là loại đặc sản hiếm chẳng nơi nào có. Chỉ có ở Cầu Kè, Trà Vinh mới có
giống dừa độc đáo này. Năm 1992. Giá một trái dừa sáp chỉ gấp rưởi, gấp đôi giá
trái dừa xiêm. Nghe nói sau này, trong những dịp lễ hội. một trái dừa sáp có
giá lên tới 300000-400000 đồng.
Theo người địa phương, dừa sáp Cầu Kè
có nguồn gốc từ một giống dừa ở Philippines, nhưng các cây giống lại do một sư
ông từ Campuchia mang về năm 1942. Ban đầu, cây dừa sáp được trồng trong chùa,
sau thấy trái lạ và ngon nên người dân quanh vùng xin giống mang về vườn nhà
trồng.
Dừa sáp chỉ khác dừa bình thường ở
ruột trái, còn lại cây, lá, vỏ, điều kiện thổ nhưỡng không khác gì dừa thường.
Sau hơn nửa thế kỷ trồng, tích luỹ nhiều kinh nghiệm, người nông dân Cầu Kè
nhân được 5 giống dừa sáp: sáp tròn, sáp dài, sáp có cạnh, sáp vỏ xanh và sáp
vỏ vàng.
Ruột trái dừa sáp dày gấp đôi (hoặc
gấp ba) ruột trái dừa thường, gồm 3 phần: phần ruột sát vỏ dẻo ít, phần ruột
tiếp xúc với nước dừa mềm và rất dẻo, trong cùng là nước dừa (ít hơn nước trái
dừa thường rất nhiều, thể lỏng sền sệt, vị ngọt nhẹ). Dừa sáp chủ yếu được nạo
ăn trực tiếp. Miếng dừa dẻo, ngọt, thơm và một chút beo béo . Cơm dừa sáp còn được dùng xay sinh
tố (cùng đường, sữa, đá bào) uống rất ngon. Một số nhà hàng còn dùng cơm dừa
sáp trộn với các loại trái cây xắt hạt lựu ướp đá làm món tráng miệng hấp dẫn.
Rời Vĩnh Long, chúng tôi theo quốc lộ I đến bến phà
Cần Thơ. Chúng tôi lấy phòng ở khách sạn Kim long tọa lạc tại trung tâm thành phố , gần
chợ Cần thơ.
Để hành lý lại khách sạn, chúng tôi lên đường đến Sóc Trăng, nơi có Chùa
Dơi nổi tiếng.
Tới ngã ba Tân Phú Thạnh, chúng tôi rẻ vào quốc lộ I, đi
một lèo tới Sóc trăng. Khoảng cách chừng trên 30 km. Chùa Dơi tọa lạc ở số 73B
đường Lê Hồng Phong, phường 3, thành phố Sóc Trăng,cách trung tâm thành phố
khoảng 2km
Gọi là chùa Dơi vì ngôi chùa này từ
lâu đã là nơi trú ẩn của hàng vạn con dơi, phần lớn có sải
cánh 1-1,2 m, những con lớn nhất có sải cánh lên tới 1,5 m..
Trên những cành cây khắp khuôn viên chùa rộng lớn là nơi cư trú của hàng vạn con dơi quạ từ bao
đời nay, chúng treo mình xếp cánh, úp mặt, móc chân lủng lẳng dày đặc trên
những cành cây trong khuôn viên chùa vào ban ngày. Chừng khoảng 6 giờ chiều dơi
bay đi kiếm ăn đến 5 giờ sáng hôm sau lại quay về. Ðiều thú vị nữa là dơi không
bao giờ ăn và phá hại trái cây trong khu vực chùa, nơi chúng nương náu.
Thật ra gọi đúng tên chùa là Chùa Mã Tộc ( chùa Wathsêrâytecho Mahatup)
được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống Khmer cách đây 400 năm tại tỉnh Sóc Trăng và đã được trùng tu nhiều lần. Chùa
có tôn trí pho tượng đức Phật cổ bằng đá cao 1,5m và nhiều bộ kinh luật viết
trên lá cây thốt nốt.
Buổi chiều chúng tôi về lại Cần Thơ ,đi vào chợ mua trái cây. Quán cơm ở gần
chợ giá cả vừa phải mà ngon. Tối, chúng tôi đi dạo trên bến Ninh Kiều.
Bến Ninh Kiều nằm
bên hữu ngạn sông Hậu, ngay ngã ba sông này và sông Cần Thơ, đường Hai Bà
Trưng, phường Tân An, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Đi dạo trong phong
cảnh sông nước hữu tình bên dòng Hậu
Giang hiền hòa đón gió lộng từ sông lên thật thú vị vô cùng.
Bến Ninh Kiều trước đây là một bến
sông ở đầu chợ Cần Thơ. Ninh Kiều ngày ấy có tên là bến Hàng Dương, hàng ngày
tấp nập thuyền bè qua lại. Con đường Hai Bà
Trưng hiện nay trước đây là đường Lê Lợi, nên dân chúng gọi bến sông là bến
Hàng Dương hay là bến Lê Lợi. Năm 1958 bến sông và công viên này được đặt
tên là bến Ninh Kiều để kỷ niệm một trận đánh oanh liệt của Lê Lợi chống quân
Minh:
“Tuy
Động thây phơi đầy đất
Ninh Kiều máu chảy thành sông”.
Ninh Kiều máu chảy thành sông”.
Sáng sớm hôm sau, chúng tôi thuê chiếc
tác ráng len lỏi vào chợ nổi Cái Răng. Ở miền Tây là vùng sông nước nên có
nhiều chợ nổi nhưng chợ Cái Răng của Cần Thơ là nổi tiếng nhất.
Chợ chỉ cách trung tâm thành phố Cần Thơ khoảng 5 km và buôn bán nhộn nhịp
từ sáng sớm đến khỏang 8-9 giờ thì vãn.Lúc này khoảng 6h sáng, hàng trăm ghe
thuyền lớn bé đã đậu san sát nhau để cùng tham gia chợ nổi.Trên thuyền chất đầy
hàng hoá,phổ biến là các loại trái cây, các sản phẩm miệt vườn được treo lủng lẳng
trên một cấy sào cắm trươc mũi ghe mà người địa phương gọi là “cây bẹo”. Vì thế
mà người mua chỉ cần nhìn vào “cây bẹo” là biết được trên ghe bán thứ gì. Chợ nổi
Cái Răng là chợ đầu mối chuyên mua bán sỉ các loại trái cây, nông sản của vùng.
Hàng hoá ở đây với số lượng lớn và mỗi mặt hàng đã được phân loại nên đồng đều
về chất lượng kích cỡ. Nếu như dân địa phương và các vùng lân cận sử dụng các
ghe xuồng trung bình chở các mặt hàng nông sản đến đây tiêu thụ thì những ghe bầu
lớn là của các thương lái thu mua trái cây toả đi khắp nơi, thậm chí đưa sang tận
Campuchia.
Giờ này cũng là lúc chợ nổi sôi động
nhất, cả khu chợ như phình to ra, lấn gần hết cả lòng sông. Mọi thứ âm thanh loạn
cả lên. Nào là tiếng máy nổ, nào là tiếng chèo khua nước,tiếng sóng vỗ òm oạp
vào mạn thuyền rồi tiếng cười nói, tiếng người mua kẻ bán, tất cả tạo nên một vẻ
sầm uất và xô bồ không kém gì những khu chợ trên cạn. Nhịp sống năng động ở chợ
trên sông thể hiện qua những chiếc ghe nhỏ bán thức ăn, cà phê thậm chí cả đồ
nhậu len lỏi trong chợ, phục vụ nhu cầu của tất cả mọi người từ đàn ông, phụ nữ
đến trẻ em. Chỉ cần 4.000-5.000 đồng cho một bát hủ tiếu hay 2.000 đồng cho ly
cà phê đá – tuy không ngon lắm nhưng bạn sẽ rất thú vị khi được thưởng thức nó
trong không khí mênh mang sông nước. Ở chợ nổi còn có đầy đủ các loại dịch vụ từ
sửa máy, sửa cân,ghe bán xăng dầu đến những cửa hàng bách hoá như mỹ phẩm, mắm
muối, thuốc tây, bánh kẹo…Các xuồng dịch vụ nhỏ gọn, len lỏi rất thiện nghệ áp
mạn ghe bán hàng rồi thu tiền, nhưng tất cả đều nhường nhịn nhau. Thỉnh thoảng
lẫn trong những đám thuyền ghe chở đầy hoa quả, hàng hoá, lại thấy thấp thoáng
những chiếc tàu du lịch cỡ nhỏ phục vụ khách thăm quan, trong đó có khách nước ngoài. Khách ta, khách tây đủ loại
tất cả như bị cuốn vào nhịp buôn bán sôi động đang diễn ra trên sông. Nhìn
quang cảnh và sinh hoạt chợ nổi Cái Răng tôi đã hiểu thêm được biết bao điều về con người,
cách sống và những nét sinh hoạt đặc trưng của người dân Nam Bộ. Quả là thú vị.
Đi trên sông nước ,ngắm cảnh bình minh đang lên, chúng tôi tận hưởng những
làn gió mát rượi vào buổi sáng sớm mang hơi thở phù sa và dường như có cả cái hồn
của châu thổ.
Đến Cần Thơ, nghe bánh xèo của bà Mười Xiềm nổi tiếng ở Trà Nóc,
cách Cần Thơ chỉ 15km, chúng tôi cũng muốn đến ăn thử một lần cho biết. Nghe
nói quán bà Mười nằm bên vệ đường, mái lá ọp ẹp như tất cả những chòi lá miền
quê sông nước khác nhưng khách
phải xếp hàng đợi lâu mới có bánh..
Thích thì thích nhưng khi nghe đường đi thì gần nhưng có vô
số những cây cầu nhỏ xíu bắc qua nhiều con
lạch nhỏ miền quê nên chúng tôi ngại, lở sơ ý té cả xe lẫn người xuống lạch thì
khốn.
C húng tôi vội vã lên đường theo quốc lộ 91 đi Long Xuyên.
Chiều đi tiếp về Sa đéc.
Không có nhiều thời gian nên chúng tôi chỉ ghé qua
thị xã Long Xuyên, đi một vòng, ăn trưa xong chúng tôi hỏi đường nào gần
nhất đi qua Sa đec, nhiều người chỉ cùng một lối đi: Qua phà Vàm Cống, men theo
quốc lộ 80 mà đi. Người ta còn cảnh báo là đường xấu lắm. Tôi không hỏi kỹ chỉ nghĩ
xấu lắm là đường ổ trâu , ổ voi, mình cứ tránh là được. Không ngờ, chuyến đi từ
phà Vàm Cống về tới Sa đéc là một thảm họa thật sự. Con đường quốc lộ 80 đi
song song với một dòng kênh thẳng tắp đang được làm mới, đang còn ở giai đoạn đổ
đá nền . Những tảng đá hộc, kích cở bằng hai bàn chân đang còn lổn chổn trên đường
nên xe gắn máy nhảy lóc chóc như phi ngựa
không thể nào chạy mà không té nên tôi phải dắt xe dẩn bộ. Mặc dù vẫn để máy nổ
nhưng đi một đoạn chúng tôi phải dừng lại nghỉ. Mệt muốn đứt hơi. Đường vắng
không một bóng người và xe cộ. E chừng qua hai mươi km đường như vậy chúng tôi
mới tới đoạn đường tráng nhựa về Sa đéc. Đoạn đường chiến binh đó chúng tôi vừa
đi vừa nghỉ mất hơn hai giờ đồng hồ. Tới Sa đéc, trời chiều sập tối. Hú hồn.
Tới khách sạn chúng tôi tắm rửa nghỉ ngơi một chút rồi hỏi tiếp tân khách
sạn quán hủ tiếu Sa đec nào ngon.
Họ chỉ một
quán bình dân trên một con đường nhỏ có món ngon đặc biệt là hủ tiếu khô. Họ
cam đoan với tôi,ăn một lần là nhớ mãi vì
chỉ có ở xứ này thôi.
Bất ngờ đầu tiên là hủ tiếu được trình bày trong đĩa thay cho tô. Cọng bánh cũng to hơn bình thường và trắng ngà. Người ta để lên đó những tim, gan và thịt heo xắt thành từng lát to che gần kín đĩa. Món ăn trông hấp dẫn hơn nhờ một loại nước xốt màu vàng đậm được rưới lên trên, thoang thoảng mùi thơm. Đĩa hủ tiếu còn được tô điểm bằng vài cọng hẹ, cải xà lách xắt nhuyễn và một ít hành phi.
Chúng tôi ăn khi dĩa hủ tiếu còn nóng và trộn đều cho nước xốt thấm vào từng sợi hủ tiếu. Thứ nước dùng sền sệt, beo béo và đậm đà quyện lấy từng sợi hủ tiếu vừa mềm vừa dai tạo một cảm giác ngon miệng đặc biệt.
Được biết, công thức pha chế loại nước xốt lạ này là "bí kíp" riêng của quán hủ tiếu ở đây. Khác với sợi bánh khô dùng cho hủ tiếu Mỹ Tho, sợi bánh hủ tiếu Sa đec chúng tôi ăn là loại hủ tiếu tươi được làm bằng bột gạo.
Hủ tiếu Sa Đéc trước nay được xếp vào hàng món ngon Nam Bộ, sánh ngang với hủ tiếu Nam Vang, hủ tiếu Mỹ Tho. Nhưng ẩm thực Sa Đéc có phần còn phong phú hơn khi ngoài món hủ tiếu nước, hủ tiếu khô thì họ còn có thêm món hủ tiếu hấp cũng thú vị không kém.
Bất ngờ đầu tiên là hủ tiếu được trình bày trong đĩa thay cho tô. Cọng bánh cũng to hơn bình thường và trắng ngà. Người ta để lên đó những tim, gan và thịt heo xắt thành từng lát to che gần kín đĩa. Món ăn trông hấp dẫn hơn nhờ một loại nước xốt màu vàng đậm được rưới lên trên, thoang thoảng mùi thơm. Đĩa hủ tiếu còn được tô điểm bằng vài cọng hẹ, cải xà lách xắt nhuyễn và một ít hành phi.
Chúng tôi ăn khi dĩa hủ tiếu còn nóng và trộn đều cho nước xốt thấm vào từng sợi hủ tiếu. Thứ nước dùng sền sệt, beo béo và đậm đà quyện lấy từng sợi hủ tiếu vừa mềm vừa dai tạo một cảm giác ngon miệng đặc biệt.
Được biết, công thức pha chế loại nước xốt lạ này là "bí kíp" riêng của quán hủ tiếu ở đây. Khác với sợi bánh khô dùng cho hủ tiếu Mỹ Tho, sợi bánh hủ tiếu Sa đec chúng tôi ăn là loại hủ tiếu tươi được làm bằng bột gạo.
Hủ tiếu Sa Đéc trước nay được xếp vào hàng món ngon Nam Bộ, sánh ngang với hủ tiếu Nam Vang, hủ tiếu Mỹ Tho. Nhưng ẩm thực Sa Đéc có phần còn phong phú hơn khi ngoài món hủ tiếu nước, hủ tiếu khô thì họ còn có thêm món hủ tiếu hấp cũng thú vị không kém.
Chúng tôi
đi xe gắn máy tà tà quanh thị xã. Chỉ có mấy con đường phố hiền hòa. Chúng tôi
ghé tới chợ trái cây bán đêm bên bờ sông. Dưới cột đèn đường chiếu ánh sáng
vàng vọt là một dãy những người bán nhiều loại trái cây. Mỗi người bán để trên
gánh hàng của mình một cây đèn măng-sông (manchon) nên cả dãy hàng dài bốn năm
chục mét sáng rực trên lề đường ven sông.
Chúng tôi
chú ý ngay một cô gái đẹp nổi bật giữa những người bán hàng.
Cô gái có
dáng dấp và vẻ đẹp mặn mà thôn nữ nhưng phong thái kiêu sa như con nhà khuê
các, lời ăn tiếng nói dịu dàng lễ phép, đặc biệt là giọng Nam bộ ngọt như mía
lùi.
Hàng
trái cây của cô cũng tươi và đẹp. Những trái xoài tươi múp míp còn nguyên cuống
xanh. Bà xã tôi hỏi “ Chục nhiêu ?”( bao nhiêu tiền một chục) bắt chước giọng
người nam nhưng vẫn lòi cài đuôi giọng Huế trọ trẹ. “ Dạ, mười ngàn, xoài cát
Hòa Lộc đó cô”. “ Chắc không?”. “ Cô mua lầm chứ bọn em bán đâu có lầm, người
Sa đéc thật thà lắm cô”. ”Cô cứ coi, xoài cát Hòa lộc và xoài cát Chu nhìn
giống nhau nhưng cát Chu múp, màu vỏ ngả qua màu vàng nghệ, xoài cát Hòa Lộc hình
dạng thuôn dài, vỏ màu vàng mơ. Mùi thơm xoài cát Hòa lộc bay xa. Đặc biệt phía
bụng từ cuống tới đầu trái xoài cát Hòa Lộc có cái rảnh nhõ mà cát Chu thì
không có”.
Bà xã tôi
rất thích xoài cát Hòa lộc, thấy xoài tươi ngon giá rẽ thích mua nhiều nhưng
tôi cản vì cồng kềnh quá( ở Sài gòn một chục mười quả tươi ngon thế này giá
cũng đến hai chục ngàn đồng). Vừa ngồi lựa xoài vừa nói chuyện với cô gái,
chúng tôi biết là cô gái sắp theo gia đình đi Mỹ theo diện HO. Cha cô là trung
tá trong quân đội Sài gòn, đi “ học tập cải tạo” về mấy năm rồi, cửa nhà sa
sút, cô phải bỏ học đi bán phụ cha mẹ nuôi gia đình. Mẹ cô là dòng dõi của ông
Huỳnh Thủy Lê, một đại điền chủ của vùng đất Sa Đéc
xưa kia.
Ông Huỳnh
Thủy Lê là nhân vật chính được nhắc đến trong quyển tiểu thuyết nổi tiếng
"Người tình"
(L'amant) của nữ văn sĩ
Pháp danh tiếng Marguerite
Duras. Đó là một chuyện tình có thật gắn liền với ký ức thời thiếu
nữ của bà lúc bà mới 15 tuổi .Trên chuyến phà theo dòng sông Mê Kông
nối liền Sa Đéc
với Vĩnh Long, bà đã gặp người tình
của mình, ông Huỳnh Thủy Lê.
Từ đó, một thiên tình sử tráng lệ ra đời. Truyện”Người tình” đã được dựng thành phim, do Jean-Jacques Annaud đạo diễn lấy bối cảnh là Sa đec, trường Marie Curie ở Sài gòn và khu Chợ lớn, với các ngôi sao Jane March, Lương Gia Huy và Lisa Faulkner. Bộ phim bắt đầu được bấm máy tại Việt Nam năm 1986, hoàn thành năm 1990 . Thời gian làm phim là bốn năm nhưng họ mất hai năm đầu chỉ làm công việc tiền trạm và thiết kế. Phim do hãng Cinematic Hongkong và Liên hiệp điện ảnh băng từ TP HCM làm dịch vụ. Cuối năm 1991, Người tình đã được công chiếu ở TP HCM. Việt Nam. Tuy nhiên, bản phim chiếu tại Việt Nam là bản tiếng Pháp đã bị cắt hầu hết cảnh nóng so với bản tiếng Hoa và tiếng Anh.
Bà xã tôi lựa xong 12 trái xoài (cứ nghĩ là chục mười hai
trái là tốt lắm rồi), đưa cho cô gái bỏ vào túi xách. Cô gái hỏi “ Cô mua một
chục hả? Lựa thêm đi cô, ở Sa đéc chục
mười tám lận cô à.”
Chúng tôi rất ngạc nhiên và vô cùng cảm kích. Chục mười
tám. Nghe có lộn không đây?
Chúng tôi đã mua xoài, măng cụt, cam quýt và những trái cây
tính chục. Ở Sài gòn chục là 10 trái. Mỹ Tho chục mười hai, Bến Tre chục 12,
Cái Bè chục 14, Vĩnh long chục 14, Cần Thơ chục 12. Không nơi đâu có chục 18
như ở Sa đéc.
Bây giờ khắp đất nước Việt Nam, ở đâu người ta mua bán hàng
hóa cũng theo trong lượng tính bằng kilogram. Thời kỳ bán mớ rau, bán nạm hành,
bán rổ cá , bán ngảo tôm, đong lon gạo bán
mẹt trái cây đã qua rồi. Bây giờ tôi kể lại chuyện này với cách bán trái cây tính
chục là kể chuyện cổ tích. Trong chuyện
cổ tích đó có chuyện mua xoài CHỤC MƯƠÌ TÁM ở Sa đec.
* *
*
Chục nguyên nghĩa là 10. Nhưng khái niệm chục trên đất Nam
bộ là một con số biến thiên theo quy chuẩn của mỗi vùng, mỗi tỉnh thành. Chục
là mười mấy tùy theo mỗi địa phương. Đó là một chuẩn mực được sự đồng thuận của
hầu hết mọi người trong vùng miền đó. Chẳng ai thắc mắc vì sao như thế. Vùng
này vùng kia không nhìn nhau mà toan tính thiệt hơn. Đây là một nét vô cùng đặc
trưng của người Nam bộ lúc đó.
Từ Sài gòn ra miền Trung, lên miền Bắc chẳng có nơi nào mua
bán mà tính chục theo lối nói của người Nam bộ. Chục là 10. Thế thôi. Làm chi
mà có chục 18?
Người Nam bộ có những
tố chất rất đáng quý, đáng mến. Tính tình họ bộc trực thẳng thắn,ruột để ngoài
da, không thích vòng vo, chúa ghét ba xạo. Họ hào phóng, hiếu khách, Họ trọng nghĩa khinh tài. Họ chân tình và thật thà. Không nơi nào ở miền Bắc ,ở miền Trung
mà con người đồng đều có nhiều tố chất tốt đẹp như vậy.
Chục
mười tám thể hiện sinh động tính hào phóng của người dân Nam bộ. Chục mười tám
ghi một vết son đậm nét trong lòng tôi. Cả đời tôi sẽ luôn nhớ đến cô gái đẹp “
chục mười tám” một lần gặp gở ở chợ trái cây Sa đéc.
* *
Sáng
hôm sau,chúng tôi theo lời giới thiệu của cô tiếp tân khách sạn đi ăn một món
đặc sản khác cùa thị xã Sa đéc. Món chả cua đồng.
Trên đĩa sứ trắng tinh
bày biện rất khéo là màu xanh của dưa leo, màu đỏ cà chua, chính giữa là một
khối chả cua đồng màu nâu sẫm có rắc đậu phộng rang giã giập cùng vài cọng ngò
điểm xuyết phía trên trông thật bắt mắt. Cạnh đó là một đĩa bánh phồng tôm chiên
vàng nóng hổi, thơm lựng. Tôi lấy miếng
bánh phồng tôm xúc một ít chả cua đồng bỏ lên miếng bánh rồi đưa vào miệng. Vị
ngọt, mềm, thơm của riêu cua, vị chua chua, giòn giòn của cà, dưa leo kết hợp
vị béo của bánh phồng tôm giòn tan trong miệng,kích thích mọi giác quan, thật
là ngon tuyệt vời!
Ăn sáng xong, chúng tôi
ra quán cà phê cóc ven sông, nhìn nước chảy bèo trôi, thuyền bè đi lại, nhâm
nhi tách cà phê, nói với nhau chuyện chục mười tám và cảm nhận sâu sắc cái sự
hào phóng và tình tự của người Nam .
Xong , chúng tôi ghé
thăm vườn hồng Tư Tôn nổi tiếng ở Sa đéc.
Cho tới xế chiều chúng
tôi mới về tới nhà.
Chúng tôi đã thực hiện
một hành trình qua bảy tỉnh trong 4 ngày 3 đêm vô cùng kỳ thú qua dặm trường
mấy trăm cây số. Mệt nhưng vui.
Với tôi, sau chuyến đi, cho
đến bây giờ, điều đọng lại mang tính nhân văn sống động nhất, đáng nhớ nhất là
CHỤC MƯỜI TÁM.
Lê Duy Đoàn,
Sài gòn,12/6/2013.
Chú thích:
1.
Tông banana ( tục) : chuối cứt.
2.
Nam kỳ Lục tỉnh hay Lục tỉnh
là tên gọi miền Nam Việt Nam thời nhà Nguyễn
độc lập, tức là khoảng thời gian từ năm 1832 (cải cách hành chính của Minh
Mạng) tới năm 1862 (khi Pháp chiếm 3 tỉnh
Miền Đông) và năm 1867 (khi Pháp chiếm nốt 3 tỉnh Miền Tây). Đương thời, người
Pháp gọi Nam Kỳ Lục Tỉnh bằng cái tên Basse-Cochinchine
(tức là vùng Cochinchine "hạ" hay vùng Hạ Đàng Trong).
Vua Minh Mạng
năm 1832 đã đổi các trấn thành tỉnh, đặt ra Nam Kỳ và chia đất Nam Kỳ, vốn trước là tổng trấn Gia Định,
thành 6 tỉnh nên gọi là Nam Kỳ Lục tỉnh hay Lục tỉnh. Đó là các
tỉnh:
- Phiên An, sau đổi thành Gia Định (tỉnh lỵ là tỉnh thành Sài Gòn),
- Biên Hòa (tỉnh lỵ là tỉnh thành Biên Hòa),
- Vĩnh Long (tỉnh lỵ là tỉnh thành Vĩnh Long),
- An Giang (tỉnh lỵ là tỉnh thành Châu Đốc),
- Hà Tiên (tỉnh lỵ là tỉnh thành Hà Tiên) ở miền Tây.
Trong dân gian, còn chia thành ba
tỉnh miền Đông gồm Gia Định, Định Tường, Biên Hòa và ba tỉnh miền Tây
gồm Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.
Qua nhiều chính thể, cho đến bây giờ miền Nam Việt nam chia
ra thành 17 tỉnh.
Nam Bộ
bao gồm 17 tỉnh từ Bình Phước trở xuống phía nam và hai thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ.Khu vực này chia làm 2 vùng chính:
- Vùng Đông Nam Bộ có 5 tỉnh và 1 thành phố:
- Vùng đồng bằng sông Cửu Long, còn gọi là Tây Nam Bộ hay miền Tây, có 12 tỉnh và 1 thành phố:
( Theo Wikipedia tiếng
Việt)
Tham khảo và trích dẫn:
Chúng tôi chân thành cám ơn các tác
giả có bài viết được tham khảo và trích dẫn trong bài viết này:
-
Chợ nổi Cái Răng: Trích Du lịch Văn hóa Việt.
-
Hủ tiếu Mỹ tho: Trần văn Chi theo NVOL.
-
Hủ tiếu sa tế: Thanh Viên – Viet Press.
-
Hủ tiếu Sa đec: Chí Nhân- Saigonamthuc.
-
Về Sa đec ăn chả cua đồng. Tuổi trè và Đất Việt.
-
Sầu riêng Sáu Ri: Traicaymiennam.vn.
-
Sầu riêng Cái mơn: Đặc sản vùng miền.
-
Bưởi Năm Roi: Wikipedia tiếng Việt.
-
Dừa sáp: Đài phát thanh và truyền hình Cần Thơ.