Cửa Sập.
Lê Duy Đoàn
Lê Duy Đoàn
Đề tài này tôi viết đã lâu nhưng bản thảo bị thất
lạc. Bài viết lúc ấy chỉ kể
lại chuyện gia đình tôi đã trải qua nạn lụt năm 1953 như thế nào mà thôi, giống
như chuyện " trời hành cơn lụt mỗi năm" của vài người Huế. Viết lại
bài này tôi có thêm phần đính chính những điểm sai của một số bài viết của các
tác giả khác viết về những cái cửa của kinh thành Huế bị sập
1.
Sửa lại cho đúng:
Bài viết " Kinh thành Huế có bao nhiêu cửa ?" của
tác giả Nguyễn văn Liêm đăng trên trang " dulichhue.com.vn" ngày
19/8/2012 và trang " iHue.org" ngày 4/11/2012 rất hay. Bài viết
có nhiều hình minh họa rõ ràng và nhiều chi tiết về số lượng cửa , vị trí địa
lý , lịch sử xây dựng, lý do bị hủy hoại và năm trùng tu . Bài viết ngắn gọn,
súc tích và thú vị. Qua đó, người đọc biết thêm được nhiều điều về kinh thành
Huế, một di sản văn hóa thế giới được Unesco công nhận ngày 11 tháng 12 năm 1993.
Nhưng tiếc thay, mặc
dù đăng trên trang mạng chính thức của ngành du lịch Huế và được nhiếu trang
khác đăng lại , nhưng bài viết có nhiều điểm sai . Những người phụ trách trang
" iHue.org" và " dulichhue.com.vn" đã không biết là sai nên
cứ đăng bừa như thế.
Dưới đây là 3 đoạn sai trong bài viết nói trên của tác giả Nguyễn văn Liêm:
Phía bên phải di tích Kỳ Đài là Cửa Quảng Đức nằm ở mặt Nam của Kinh Thành, chỉ lưu thông một chiều từ hướng đường Lê Duẩn vào đường 23/8. Phần cửa vòm được xây dựng vào năm 1809, dưới thời vua Gia Long, vọng lâu được xây dựng vào năm 1829, thời Minh Mạng. Trận lụt năm 1953, đã quét sập đổ hoàn toàn bộ phận vòm cửa và vọng lâu, vì thế dân chúng vẫn quen gọi là cửa Sập.
Dưới đây là 3 đoạn sai trong bài viết nói trên của tác giả Nguyễn văn Liêm:
Phía bên phải di tích Kỳ Đài là Cửa Quảng Đức nằm ở mặt Nam của Kinh Thành, chỉ lưu thông một chiều từ hướng đường Lê Duẩn vào đường 23/8. Phần cửa vòm được xây dựng vào năm 1809, dưới thời vua Gia Long, vọng lâu được xây dựng vào năm 1829, thời Minh Mạng. Trận lụt năm 1953, đã quét sập đổ hoàn toàn bộ phận vòm cửa và vọng lâu, vì thế dân chúng vẫn quen gọi là cửa Sập.
Cửa
Hữu, có tên chữ là Tây Nam Môn, nằm ở
phía Tây Nam của Kinh Thành, ở đầu đường Yết Kiêu. Phần cửa vòm, được xây dựng
vào năm 1809, dưới thời vua Gia Long, vọng lâu được xây dựng năm 1829 thời Minh
Mạng. Đêm mồng 5/7/1885, vua Hàm Nghi đã xuất bôn từ cửa này ra khỏi Kinh
Thành, để ban hịch Cần Vương. Chiến sự năm 1968, đã làm sập vọng lâu và vòm
cửa.
"Cửa
Chánh Tây nằm ở phía Tây Kinh Thành, trên
đường Thái Phiên, TP Huế. Phần cửa vòm được xây dựng vào năm 1809, dưới
thời vua Gia Long, vọng lầu bên trên được xây dựng năm 1829, dưới thời
vua Minh Mạng.Trong chiến sự năm 1968, nơi đây từng là cửa ngõ giao tranh ác
liệt, cửa bị tàn phá hoàn toàn phần vọng lầu phía trên, sau đó bị cấm đi
lại."
Như vậy, Ông Liêm cho rằng Cửa Hữu và cửa Chánh tây
đồ sập do bom đạn trong chiến sự năm Mậu thân 1968 và cửa Quảng Đức được gọi là
cửa sập.
Nếu
không ai chỉ ra những điểm sai trong bài viết nói trên thì những điều tác giả
Nguyễn văn Liêm đã viết sẽ đương nhiên được xem là sự thật . Thông tin sai
lạc đó không nên có trong một thành phố du lịch và di sản như Huế. .
Tác giả không biết rằng 2 cửa Hữu và cửa Chánh tây đã sập đổ đồng thời với 2 cửa Ngăn trên ( cửa Quảng đức) và cửa Nhà Đồ trong trận lụt kinh hoàng năm 1953 chứ không phải là sập đổ vì chiến sự năm 1968.
Cửa Sập dùng để gọi của Nhà Đồ chứ không phải gọi cửa Quãng Đức . Thế hệ U70 chúng tôi dù là người hoang đàng hay không hoang đàng đều biết danh cửa Sập. Tên gọi đó gắn liền với hai động nhền nhện ngay gần sát cừa Nhà Đồ.
Tác giả không biết rằng 2 cửa Hữu và cửa Chánh tây đã sập đổ đồng thời với 2 cửa Ngăn trên ( cửa Quảng đức) và cửa Nhà Đồ trong trận lụt kinh hoàng năm 1953 chứ không phải là sập đổ vì chiến sự năm 1968.
Cửa Sập dùng để gọi của Nhà Đồ chứ không phải gọi cửa Quãng Đức . Thế hệ U70 chúng tôi dù là người hoang đàng hay không hoang đàng đều biết danh cửa Sập. Tên gọi đó gắn liền với hai động nhền nhện ngay gần sát cừa Nhà Đồ.
Cách đây hơn hai năm, để chắc chắn
điều mình nói là đúng, tôi gửi mail cho Thầy Võ văn Dật, (viết văn với bút hiệu
Võ Hương An ), nguyên là giáo sư trường Trung học Hàm Nghi Huế, để hỏi chuyện
này,vào ngày thứ năm, 28/10/ 2010 .
Kính Thầy,
Tôi là Lê Duy Đoàn, bạn thân của Trần Kiêm Đoàn.
Tôi học Quốc Học chứ không học Hàm Nghi nên không học Thầy. Dù vậy, tôi vẫn
trân trọng gọi Thầy là Thầy vì Thầy xứng đáng đượcgọi như thế.
Có một điều tôi đang viết về lụt 1953 nên muốn
xin hỏi Thầy là có phải 3 cửa Chánh Tây, Cửa Hữu, và cửa Sập đều bị nước lụt
làm sập năm đó phải không? Có cửa nào bị sập vì lụt 53 nữa?
Kính,
Lê Duy Đoàn
Ngày thứ sáu 29/10/ 2010 , Thầy Dật trả lời:
Thưa
anh Đoàn,
Đúng là có 4 cửa bị sập vì nằm trên đường chảy của nước trên nguồn đổ về: cửa Chánh Tây, cửa Hữu tức Tây Nam, cửa Chánh Nam tức Nhà Đồ và cửa Quảng Đức.
Xin nóí rõ hơn một chút: lấy Cột cờ làm chuẩn, thì cửa bên trái Cột cờ (từ trong nhìn ra) là cửa Ngăn, có tên chính thức là Thể Nhơn. cửa bên phải Cột cờ là Quảng Đức. Cửa naỳ xưa, thời còn vua, chỉ dành cho các bà thuộc Nội cung vô ra, đặc biệt ra hóng mát sông Hương, thường xuyên đóng, dân chúng không được sử dụng, vì vậy ngay cả người Huế cũng lắm người không biết cửa naỳ tên gì.
Sau trận lụt năm Tỵ (1953) xuất hiện một tên mới : cửa Sập. Vậy cửa Sập là cửa nào?
Đa số sách báo nóí cửa Sập là cửa Quảng Đức, theo tôi, là sai. Dân Cầu Đất thời ấy đều biết cửa Sập là dùng chỉ cưả Nhà Đồ.
Xin cảm ơn cảm tình anh đã dành cho. Rất mong được đọc bài viết của anh để có dịp nhớ lại Huế mình. Kính thăm.WD (đây là chữ ký tắt của tôi cuối thư để bà con bạn bè nhận diện không phài hacker).
Hơn hai năm sau lần trao đổi mail với Thầy Dật, tôi mới viết bài này.
* *
2. Cửa Hữu bị sập lúc nào? Vì sao bị sập ?
Năm 1951, ba tôi thấy sống ở vùng quê tôi (xóm Đông an. làng An ninh hạ) không an toàn nên đã quyết định đưa gia đình tôi di chuyển về ở nhờ trên đất khu vườn rộng của ông ngoại tôi ở bên ngoài cửa Hữu, thuộc phường Phú thạnh, thành phố Huế.
Đúng là có 4 cửa bị sập vì nằm trên đường chảy của nước trên nguồn đổ về: cửa Chánh Tây, cửa Hữu tức Tây Nam, cửa Chánh Nam tức Nhà Đồ và cửa Quảng Đức.
Xin nóí rõ hơn một chút: lấy Cột cờ làm chuẩn, thì cửa bên trái Cột cờ (từ trong nhìn ra) là cửa Ngăn, có tên chính thức là Thể Nhơn. cửa bên phải Cột cờ là Quảng Đức. Cửa naỳ xưa, thời còn vua, chỉ dành cho các bà thuộc Nội cung vô ra, đặc biệt ra hóng mát sông Hương, thường xuyên đóng, dân chúng không được sử dụng, vì vậy ngay cả người Huế cũng lắm người không biết cửa naỳ tên gì.
Sau trận lụt năm Tỵ (1953) xuất hiện một tên mới : cửa Sập. Vậy cửa Sập là cửa nào?
Đa số sách báo nóí cửa Sập là cửa Quảng Đức, theo tôi, là sai. Dân Cầu Đất thời ấy đều biết cửa Sập là dùng chỉ cưả Nhà Đồ.
Xin cảm ơn cảm tình anh đã dành cho. Rất mong được đọc bài viết của anh để có dịp nhớ lại Huế mình. Kính thăm.WD (đây là chữ ký tắt của tôi cuối thư để bà con bạn bè nhận diện không phài hacker).
Hơn hai năm sau lần trao đổi mail với Thầy Dật, tôi mới viết bài này.
* *
2. Cửa Hữu bị sập lúc nào? Vì sao bị sập ?
Năm 1951, ba tôi thấy sống ở vùng quê tôi (xóm Đông an. làng An ninh hạ) không an toàn nên đã quyết định đưa gia đình tôi di chuyển về ở nhờ trên đất khu vườn rộng của ông ngoại tôi ở bên ngoài cửa Hữu, thuộc phường Phú thạnh, thành phố Huế.
Ba tôi đem
cái khung nhà rường ba gian hai chái trên quê về dựng làm chỗ trú ngụ, mái nhà
lợp tạm bằng tranh .
Đường bên ngoài cửa Hữu ( bây giờ là đường Yết kiêu nối dài) là một đoạn đường ngắn chỉ có mấy nhà. Nhà tôi cách bờ hồ chừng 20 mét. Phía phải từ trong cửa nhìn ra lần lượt là nhà Bác Mão, nhà tôi, Dì Hòa, Chú Hạn và anh Mừng. Phía bên đối diện, là nhà Bác Dần, Bác Bá, Bác Gà, Bác Tri, và đầu đường sát quốc lộ 1 là nhà Ông Út. Lúc đó, phường Phú thạnh dân cư còn thưa thớt. Từ cầu Giả viên cho đến cầu An hòa phía cận hồ , những ngôi nhà có khu vườn rộng nối tiếp nhau. Trước năm 1975, tôi có thể kể tên từng nhà nằm ở mặt tiền đường từ cầu Giả viên cho đến tận cầu An hòa.
Bên kia đường ray xe lửa,phía bờ sông Bạch yến, nhà cũng có vườn nhưng nhỏ hơn phía bờ hồ nhiều.
Đường bên ngoài cửa Hữu ( bây giờ là đường Yết kiêu nối dài) là một đoạn đường ngắn chỉ có mấy nhà. Nhà tôi cách bờ hồ chừng 20 mét. Phía phải từ trong cửa nhìn ra lần lượt là nhà Bác Mão, nhà tôi, Dì Hòa, Chú Hạn và anh Mừng. Phía bên đối diện, là nhà Bác Dần, Bác Bá, Bác Gà, Bác Tri, và đầu đường sát quốc lộ 1 là nhà Ông Út. Lúc đó, phường Phú thạnh dân cư còn thưa thớt. Từ cầu Giả viên cho đến cầu An hòa phía cận hồ , những ngôi nhà có khu vườn rộng nối tiếp nhau. Trước năm 1975, tôi có thể kể tên từng nhà nằm ở mặt tiền đường từ cầu Giả viên cho đến tận cầu An hòa.
Bên kia đường ray xe lửa,phía bờ sông Bạch yến, nhà cũng có vườn nhưng nhỏ hơn phía bờ hồ nhiều.
Đoạn đường
từ cầu Giả viên xuống đến vườn hoa Phú vân lâu vẫn còn nhà đông đúc ở hai bên
đường mãi đến năm 59. 60 mới dời vào định cư trong phường Tây lộc. Hầu hết là
nhà trệt xây dựng tạm bợ.
Ngày 21-9-1953. Thành phố Huế.
Trời mưa
không dứt đã mấy ngày. Mây thấp, trời xám xịt. Mưa từng đợt kèm gió táp. Người trong nhà cũng
thấy lạnh. Người đi ngoài đường bị mưa gió đẩy liêu xiêu. . Hai ngày qua
nước dâng lên chậm. Cho đến chiều hôm đó, nước chưa lên tới bợt hồ
trước cửa Hữu. ( Nói là hồ vì người Huế quen gọi như thế, thật ra đó là hào hộ
thành).
Khi nước nguồn đổ, nước chảy cuồn cuộn trên
dòng sông Hương, xoáy dưới chân cầu. Nước cuộn vào sông Bạch yến rồi đổ vào hồ
. Người ta không biết vì sao những cây khô, cây cháy và củi rều lại trôi trên
sông nhiều như thế.
Ba tôi đi
một vòng ra cầu Giả viên, đứng trên cầu
nhìn xuống nước chảy hung hản bên dưới, nói với mấy người bạn :” Sợ lụt to
đây.”.
Nhà tôi
vừa mới trên quê xuống phố, việc mưu sinh của Ba mẹ tôi lúc đầu khá vất vả
nhưng nhờ Trời thương và nhiều người giúp đở nên cuộc sống cũng dần khá lên.
Trong nhà chưa có vật dụng chi nhiều. Gian giữa có một tủ thờ và bộ bàn ghế
chạm trổ cũng đem từ quê lên. Một cái phản ngựa gõ kê sát cửa sổ bên trái phía
trước là đáng giá . Ba tôi nằm ngủ với tôi trên đó. Một cái giường trong phòng
kín để Mẹ tôi và em bé thứ tư mới sinh nằm . Em bé chưa đầy 4 tháng. Một cái
sập bằng gỗ chạm trổ Bà nội tôi nằm với
em gái kế và em trai thứ ba của tôi.
Ba tôi nhờ
người phụ giúp đưa hơn chục bao thóc lên
cao. Số thóc vừa được người bà con chở xuống giao cho Ba tôi chỉ mấy ngày trước
đó. Gia đình tôi có mấy sào ruộng cho người trên làng làm rẻ ( cách gọi của
người Huế, chỉ việc làm ruộng trên đất của ai đó tới mùa chia một phần huê lợi
cho họ).
Con nít
như tôi, thấy nước bạc dâng lên thì thích, đâu biết là người lớn lo trong bụng
thế nào !Trên cái cống ngoài cửa Hữu, cả hai bên thành cống, người ta đặt 5 cái
rớ ( người Bắc gọi là vó), Năm ấy, người
cất rớ, bắt được nhiều cá, đặc biệt là có rất nhiều cá gáy. Mỗi lần cất rớ lên
mà có nhiều cá lớn là những người đứng coi la lên rầm trời. Cho tới sập tối
người ta cũng còn phấn khích vói chuyện bắt được nhiều cá to. Hầu như mọi người
đều nghĩ trong bụng lụt lội năm ni chẳng có chi đáng lo.
Có một việc đặc biệt tôi muốn nói ở đây. Cửa Hữu
và các cửa khác của kinh thành Huế đều có hai cánh cửa gỗ to lớn với khung cửa
và những thanh đố ngang dọc rất chắc chắn, cao đền gần vòm cửa. Mỗi buổi chiều,
cứ đến 5 giờ, cửa Hữu đươc đóng lại và khóa bằng sợi xích và cái khóa to tướng.
Tôi nghe Ba tôi nói lại là cửa Chánh tây, cửa Nhà Đồ và cửa
Quãng Đức cũng bị đóng và khóa tương tự như cửa Hữu. Năm đó tình hình chính trị và quân sự rất
căng thẳng và phức tạp. Người ta đóng mấy
cái cửa thành vì sợ sự xâm nhập của Việt minh vào thành nội từ Vạn xuân qua bến
đò Kẻ vạn và từ Kim long hậu thôn qua bến
đò Ba bến.
Chiều hôm
đó, tôi đội nón dầm mưa ra ngoài cống Cửa Hữu coi người ta cất rớ và xem chừng
nước lớn đến đâu. Khi Ba tôi kêu vô nhà ăn cơm chiều thì người tôi ướt sũng. Hơ
lửa than của Mẹ cho ấm, ăn một bụng cơm no nê rồi tôi lên phản ngựa nằm ngũ một
giấc say sưa không biết trời trăng chi nữa.
Nữa đêm, tôi
giật mình khi nghe cạch một tiếng rồi có tiếng rẹt rẹt, tôi mơ màng mớ ngũ mở mắt
nhìn quanh. Một vịt dầu leo lét để ở góc phản, xung quanh tối om. Tiếng Ba tôi
:” Dậy đi con”. Định thần nhìn kỹ, tôi
thấy một cái mũi ghe câu áp sát phản tôi nằm. Hèn chi có tiếng rẹt rẹt khi ghe
cặp sát vào phản. Nước tràn lên phản làm ướt lạnh lưng tôi. Thì ra, lúc tôi ngũ
quên thì Ba tôi cùng đi với Cậu Cháu ( anh ruột Mẹ tôi) dùng ghe câu di tản những
người khác đi hết cả rồi. Bây giờ trở lại đón tôi cuối cùng thì nước lụt đã
dâng lên nhanh và cao xấp xấp mép phản ngựa tôi ngũ rồi. Chỉ chậm một chút nữa
nước dâng lên ngập chắc chắn tôi chẳng biết xoay xở làm sao đành phải “ xuôi tay cho Mệ nuốt “ thôi.
Nước đã tràn
qua đường ray và quốc lộ 1 từ hồi nào rồi. Trong đêm tối, nghe tiếng nước mưa,
tiếng nước chảy trên đường tôi nghe cả
cơn cuồng nộ của thiên nhiên xuống thành phố Huế.
Chiếc ghe di
chuyển chậm chạp trong bóng tối nhờ nhờ chập choạng tôi vẫn cảm nhận sức nước
chảy ào ạt cuồn cuộn bên dưới ghe.
Chiếc ghe
câu nhỏ bị sức nước đẩy đi như muốn lật úp. Ba tôi phải nhảy xuống làn nước lụt
lạnh giá đẩy ghe trong vườn nhà người ta . Đáng lý đưa tôi đến nhà Mệ Viên Dép
( một biệt thự gần Cống Thủy quan, có vườn rộng, đất cao nước lụt chưa lên tới)
cùng với gia đình tôi đang trú ngụ ở đó, ba tôi đưa ghe ra đường quốc lộ lại tạt
ghe vào nhà Bác Phẩm, một người làng tản cư xuống Phú Thạnh làm nghề guốc.
Trước mặt
nhà Bác Phẩm là khu vườn của ông ngoại tôi.Từ nhà Bác Phẩm, Ba tôi có thể quan sát nhà tôi ( gần nhà mà xa cửa ngỏ).
Hầu hết nhà trong khu tôi ở, nước có vẻ như chấm mái. Ngay chỗ nhà Bác Phẩm nói
là chỗ cao nhưng đến sáng hôm sau, nước cũng lên xấp xấp mặt phản ngựa chúng
tôi ngồi.
Tuổi con nít
mau đói, sáng hôm sau ngồi trên phản ngựa, tôi ngữi thấy mùi cơm chín dưới nhà
bếp bốc lên thơm ngào ngạt, Ba tôi xuống bếp xin cho tôi một chén cơm nóng. Cơm
nóng chan một chút nước mắm ngon vô cùng. Có lẻ cả đời tôi không khi nào được ăn một chén cơm ngon như vậy. Sau này tôi mới
biết, người tạm trú ở nhà Bác Phẩm đông nên cơm nấu ra chỉ đủ phát cho mỗi nhà
một chén, tôi ăn hết thì Ba tôi nhịn chớ sao !!
Mẹ tôi sau
này ,khi nào nói đến chuyện lụt 53 cũng nói về Mệ Viên Dép với lòng kính trong
và biết ơn sâu sắc. Bà nội tôi , mẹ tôi, 2 đứa con dại và em bé mới sinh chứa đầy
bốn tháng, được Mệ ưu tiên chăm sóc, cho chiếu nằm, chăn ấm, thức ăn .
Vừa mới ăn
cơm xong, đang ngồi ngó mông ra ngoài sân vườn thấy nước lụt chảy vùn vụt ,
xoáy reo ầm quanh mấy gốc cây to, tôi bổng giật nẩy mình khi nghe tiếng rầm rầm
vang dội như sấm dậy. Một làn sóng cao
như một cột sóng thần tràn qua vườn cây có nhiều cây ăn quả thân lớn của Ông
ngoại tôi. Cây cối bị xô dạt gảy đổ. Nhà
Bác Phẩm bị sóng xô nghiêng ngã, cơ hồ muốn sập nhà. Tôi hoảng quá, thấy người
lớn nhảy xuống nước lội lỏm bỏm, tôi cũng nhảy xuống đinh chạy thì ba tôi níu
tay tôi lại.” Đừng, không răng mô, đừng sợ”. Tôi nhìn tay ba tôi đang nắm chặt tay tôi. Trên
tay Ông có đeo cái đồng hồ, vô tình tôi liếc thấy kim đồng hồ chỉ 9 giờ 15 phút.
Từ sáng cho
tới chiều tối nước cầm chừng không cao
lên chút nào nữa. Nước ngâm như thế cho
đến sáng hôm sau thì rút xuống nhanh.
Trời mưa xối
xả. ba tôi nói “ Mưa xối bùn, hết lụt rồi”.
Nhìn cảnh
nhà cửa sau khi nước rút đi thật não lòng. Cũng như nhiều nhà láng giềng và
trong xóm, nhà tôi đổ nghiêng. Bàn ghế tủ giường nghiêng đổ nằm chỏng chơ. Bùn
bám trên mọi vật dụng. Hàng chục bao
thóc đổ tung tóe, ngâm nước lụt phải bỏ đi. Mấy ngày sau trên nền đất những đám
mạ non lên xanh tốt. Mất cả tuần Ba tôi mới dựng lại nhà, quét dọn bùn và phơi
phong vật dụng.
Nghe nói
trên làng Bằng lãng ( Tuần) nước lụt cuốn trôi nhà cửa và người nguyên một ngôi
làng.
Củi rều và
rác rến còn vương trên nửa thân cây!! Tang thương phủ màn u ám trên quê hương
Thừa thiên và Huế. Cả
tỉnh có 335 người chết, 6.192 ngôi nhà bị đổ.
…………
Cửa Hữu sập
lúc 9 giờ 15 phút sáng ngày 22 tháng 9 năm 1953. Có lẽ ba cửa Chánh tây, Nhà Đồ,
Quãng Đức cùng đổ sập ngày hôm ấy.
Nguyên một
cái cửa thành đổ sập xuống, gảy ra thành từng khối gạch to lớn có hình dáng bất
định. Màu gạch vồ đỏ au, màu những đường vữa vôi trắng hếu.. Ngay vị trí chân móng cửa thành kéo dài qua
hai bên là một hố sâu hoắm. Dòng nước hung
hản chảy qua cửa thành bị cửa gỗ chận lại, nhửng cây gỗ, củi rều trôi theo nước
lụt tấp vào cửa chặn dòng nước chảy bên trên nên nước tuôn bên dưới xói mòn
chân đế của cửa thành. Giống hệt người đốn cây, từng nhát, từng nhát rìu chặt
gốc về một phía, chỉ chặt đền hơn nửa thân, cây đã đổ. Nước xói làm hỏng mất
chân đế phía ngoài nên toàn bộ cửa đổ sập ra bên ngoài thành. Nếu cửa thành
không khóa lại, dòng nước không bị chận lại, có lẽ 4 cửa thành đã không bị sập
đổ như thế.
Mấy hôm
sau, nhiều người dân đem búa , đục tìm cách gở gạch ra từng viên để dùng nhưng
vữa vôi pha mật đường gắn kết gạch quá chắc chắn nên không ai lấy được dù chỉ
một viên nguyên vẹn.
Cửa Ngăn
dưới ( Thể nhơn) không bị xói mòn chân đế vì dòng nước lũ bị kỳ đài chận lại
nên dòng chảy đổi hướng và sức nước yếu đi.
……………
Những cửa thành của Kinh thành Huế là vật chứng cho những tang thương. Cửa thành
ghi dấu những sự kiện từ kinh đô thất thủ ngày (23.5. Ất
dậu, 1885) sau cuộc
chiến không cân sức giữa phe chủ chiến của triều đình Huế với giặc Pháp rồi đến sự tàn phá của thiên tai qua trận lụt
1953 làm 4 cửa thành đổ sập, rồi lại trải mình qua chiến sự Tết Mậu thân (1968) với bao nhiêu
vết hằn của bom đạn .
Bốn cửa thành
đã được xây dựng lai từ năm 1998 cho đến gần đây mới xong. Chỉ cửa thành là mang
diện mạo mới , còn phần thành xưa vây
quanh kinh thành cổ kính rêu phong vẫn như mang theo mình dấu vết thời gian
và khổ nạn triền miên của Huế.
Lê Duy Đoàn.
Ngày 6/ 12/2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét