Thứ Hai, 11 tháng 3, 2013

Cửa Sập



                             Cửa Sập.
                                                                                      Lê Duy Đoàn
Đề tài  này tôi viết đã lâu nhưng bản thảo bị thất lạc. Bài viết lúc  ấy  chỉ  kể lại chuyện gia đình tôi đã trải qua nạn lụt năm 1953 như thế nào mà thôi, giống như chuyện " trời hành cơn lụt mỗi năm" của vài người Huế. Viết lại bài này tôi có thêm phần đính chính những điểm sai của một số bài viết của các tác giả khác viết về những cái cửa của kinh thành Huế bị sập
 
1. Sửa lại cho đúng:
Bài viết " Kinh thành Huế có bao nhiêu cửa ?" của tác giả Nguyễn văn Liêm đăng trên trang " dulichhue.com.vn" ngày 19/8/2012 và trang " iHue.org" ngày 4/11/2012  rất hay. Bài viết có nhiều hình minh họa rõ ràng và nhiều chi tiết về số lượng cửa , vị trí địa lý , lịch sử xây dựng, lý do bị hủy hoại và năm trùng tu . Bài viết ngắn gọn, súc tích và thú vị. Qua đó, người đọc biết thêm được nhiều điều về kinh thành Huế, một di sản văn hóa thế giới  được Unesco công nhận ngày  11 tháng 12 năm 1993.
 Nhưng tiếc thay, mặc dù đăng trên trang mạng chính thức của ngành du lịch Huế và được nhiếu trang khác đăng lại , nhưng bài viết có nhiều điểm sai . Những người phụ trách trang " iHue.org" và " dulichhue.com.vn" đã không biết là sai nên cứ đăng bừa như thế.

 Dưới đây là 3 đoạn sai trong bài viết nói trên của tác giả Nguyễn văn Liêm:
Phía bên phải di tích Kỳ Đài là Cửa Quảng Đức nằm ở mặt Nam của Kinh Thành, chỉ lưu thông một chiều từ hướng đường Lê Duẩn vào đường 23/8. Phần cửa vòm được xây dựng vào năm 1809, dưới thời vua Gia Long, vọng lâu được xây dựng vào năm 1829, thời Minh Mạng. Trận lụt năm 1953, đã quét sập đổ hoàn toàn bộ phận vòm cửa và vọng lâu, vì thế dân chúng vẫn quen gọi là cửa Sập.
Cửa Hữu, có tên chữ là Tây Nam Môn, nằm ở phía Tây Nam của Kinh Thành, ở đầu đường Yết Kiêu. Phần cửa vòm, được xây dựng vào năm 1809, dưới thời vua Gia Long, vọng lâu được xây dựng năm 1829 thời Minh Mạng. Đêm mồng 5/7/1885, vua Hàm Nghi đã xuất bôn từ cửa này ra khỏi Kinh Thành, để ban hịch Cần Vương. Chiến sự năm 1968, đã làm sập vọng lâu và vòm cửa.

"Cửa Chánh Tây nằm ở phía Tây Kinh Thành, trên đường Thái Phiên, TP Huế. Phần cửa vòm được xây dựng vào năm 1809, dưới thời  vua Gia Long, vọng lầu bên trên được xây dựng năm 1829, dưới thời vua Minh Mạng.Trong chiến sự năm 1968, nơi đây từng là cửa ngõ giao tranh ác liệt, cửa bị tàn phá hoàn toàn phần vọng lầu phía trên, sau đó bị cấm đi lại."

Như vậy, Ông Liêm cho rằng Cửa Hữu và cửa Chánh tây đồ sập do bom đạn trong chiến sự năm Mậu thân 1968 và cửa Quảng Đức được gọi là cửa sập.
 Nếu không ai chỉ ra những điểm sai trong bài viết nói trên thì những điều tác giả Nguyễn văn Liêm đã viết sẽ đương nhiên được xem là sự thật . Thông tin sai lạc  đó không nên có trong một thành phố du lịch và di sản như Huế. .
Tác giả  không biết rằng 2 cửa Hữu và cửa Chánh tây đã sập đổ đồng thời với 2 cửa Ngăn trên ( cửa Quảng đức) và cửa Nhà Đồ trong trận lụt kinh hoàng năm 1953 chứ không phải là sập đổ vì chiến sự năm 1968.
 Cửa Sập dùng để gọi của Nhà Đồ chứ không phải  gọi cửa Quãng Đức  . Thế hệ U70 chúng tôi dù là người  hoang đàng hay không hoang đàng đều biết danh cửa Sập. Tên gọi đó gắn liền với hai động  nhền nhện ngay gần sát cừa Nhà Đồ.
Cách đây hơn hai năm, để chắc chắn điều mình nói là đúng, tôi gửi mail cho Thầy Võ văn Dật, (viết văn với bút hiệu Võ Hương An ), nguyên là giáo sư trường Trung học Hàm Nghi Huế, để hỏi chuyện này,vào ngày thứ năm, 28/10/ 2010 .
Kính Thầy,
Tôi là Lê Duy Đoàn, bạn thân của Trần Kiêm Đoàn. Tôi học Quốc Học chứ không học Hàm Nghi nên không học Thầy. Dù vậy, tôi vẫn trân trọng gọi Thầy là Thầy vì Thầy xứng đáng đượcgọi như thế.
Có một điều tôi đang viết về lụt 1953 nên muốn xin hỏi Thầy là có phải 3 cửa Chánh Tây, Cửa Hữu, và cửa Sập đều bị nước lụt làm sập năm đó phải không? Có cửa nào bị sập vì lụt 53 nữa?
Kính,
Lê Duy Đoàn

Ngày thứ sáu 29/10/ 2010 , Thầy Dật trả lời:
Thưa anh Đoàn,
 Đúng là có 4 cửa bị sập vì nằm trên đường chảy của nước trên nguồn đổ về: cửa Chánh Tây, cửa Hữu tức Tây Nam, cửa Chánh Nam tức Nhà Đồ và cửa Quảng Đức.
Xin nóí rõ hơn một chút: lấy Cột cờ làm chuẩn, thì cửa bên trái Cột cờ (từ trong nhìn ra) là cửa Ngăn, có tên chính thức là Thể Nhơn.  cửa bên phải Cột cờ là Quảng Đức.  Cửa naỳ xưa, thời còn vua, chỉ dành cho các bà thuộc Nội cung vô ra, đặc biệt ra hóng mát sông Hương, thường xuyên đóng, dân chúng không được sử dụng, vì vậy ngay cả người Huế cũng lắm người không biết cửa naỳ tên gì.
Sau trận lụt năm Tỵ (1953) xuất hiện một tên mới : cửa Sập.  Vậy cửa Sập là cửa nào?
Đa số sách báo nóí cửa Sập là cửa Quảng Đức, theo tôi, là sai.  Dân Cầu Đất thời ấy đều biết cửa Sập là dùng chỉ cưả Nhà Đồ.
 Xin cảm ơn cảm tình anh đã dành cho.  Rất mong được đọc bài viết của anh để có dịp nhớ lại Huế mình. Kính thăm.WD (đây là chữ ký tắt của tôi cuối thư để bà con bạn bè nhận diện không phài hacker).
 Hơn hai năm sau lần trao đổi mail với Thầy Dật, tôi mới viết bài này.

                                         *          *
2. Cửa Hữu bị sập lúc nào? Vì sao bị sập ?
Năm 1951, ba tôi thấy sống ở vùng quê tôi (xóm Đông an. làng An ninh hạ) không an toàn nên đã  quyết định đưa gia đình tôi di chuyển về ở nhờ trên đất khu vườn rộng của ông ngoại tôi ở bên ngoài cửa Hữu, thuộc phường Phú thạnh, thành phố Huế.
Ba tôi đem cái khung nhà rường ba gian hai chái trên quê về dựng làm chỗ trú ngụ, mái nhà lợp tạm bằng tranh .
Đường bên ngoài cửa Hữu ( bây giờ là đường Yết kiêu nối dài) là một  đoạn đường ngắn chỉ có mấy nhà. Nhà tôi cách bờ hồ chừng 20 mét. Phía phải từ trong cửa nhìn ra lần lượt là nhà Bác Mão, nhà tôi, Dì Hòa, Chú Hạn và anh Mừng. Phía bên đối diện, là nhà Bác Dần, Bác Bá, Bác Gà, Bác Tri, và đầu đường sát quốc lộ 1 là nhà Ông Út. Lúc đó, phường Phú thạnh dân cư còn thưa thớt. Từ cầu Giả viên cho đến cầu An hòa phía cận hồ , những ngôi nhà có  khu vườn rộng nối tiếp nhau. Trước năm 1975, tôi có thể kể tên từng nhà nằm ở mặt tiền đường từ cầu Giả viên cho đến tận cầu An hòa.
Bên kia đường ray xe lửa,phía bờ sông Bạch yến, nhà cũng có vườn nhưng nhỏ hơn phía bờ hồ nhiều.
Đoạn đường từ cầu Giả viên xuống đến vườn hoa Phú vân lâu vẫn còn nhà đông đúc ở hai bên đường mãi đến năm 59. 60 mới dời vào định cư trong phường Tây lộc. Hầu hết là nhà trệt xây dựng tạm bợ.

Ngày 21-9-1953. Thành phố Huế.
Trời mưa không dứt đã mấy ngày. Mây thấp, trời xám xịt.  Mưa từng đợt kèm gió táp. Người trong nhà cũng thấy lạnh. Người đi ngoài đường bị mưa gió đẩy liêu xiêu. . Hai  ngày qua  nước dâng lên chậm.  Cho  đến chiều hôm đó, nước chưa lên tới bợt hồ trước cửa Hữu. ( Nói là hồ vì người Huế quen gọi như thế, thật ra đó là hào hộ thành).
  Khi nước nguồn đổ, nước chảy cuồn cuộn trên dòng sông Hương, xoáy dưới chân cầu. Nước cuộn vào sông Bạch yến rồi đổ vào hồ . Người ta không biết vì sao những cây khô, cây cháy và củi rều lại trôi trên sông nhiều như thế.
Ba tôi đi một vòng ra  cầu Giả viên, đứng trên cầu nhìn xuống nước chảy hung hản bên dưới, nói với mấy người bạn :” Sợ lụt to đây.”.
Nhà tôi vừa mới trên quê xuống phố, việc mưu sinh của Ba mẹ tôi lúc đầu khá vất vả nhưng nhờ Trời thương và nhiều người giúp đở nên cuộc sống cũng dần khá lên. Trong nhà chưa có vật dụng chi nhiều. Gian giữa có một tủ thờ và bộ bàn ghế chạm trổ cũng đem từ quê lên. Một cái phản ngựa gõ kê sát cửa sổ bên trái phía trước là đáng giá . Ba tôi nằm ngủ với tôi trên đó. Một cái giường trong phòng kín để Mẹ tôi và em bé thứ tư mới sinh nằm . Em bé chưa đầy 4 tháng. Một cái sập bằng gỗ chạm trổ  Bà nội tôi nằm với em gái kế và em trai thứ ba của tôi.
Ba tôi nhờ người phụ giúp  đưa hơn chục bao thóc lên cao. Số thóc vừa được người bà con chở xuống giao cho Ba tôi chỉ mấy ngày trước đó. Gia đình tôi có mấy sào ruộng cho người trên làng làm rẻ ( cách gọi của người Huế, chỉ việc làm ruộng trên đất của ai đó tới mùa chia một phần huê lợi cho họ).

Con nít như tôi, thấy nước bạc dâng lên thì thích, đâu biết là người lớn lo trong bụng thế nào !Trên cái cống ngoài cửa Hữu, cả hai bên thành cống, người ta đặt 5 cái rớ ( người Bắc gọi là vó),  Năm ấy, người cất rớ, bắt được nhiều cá, đặc biệt là có rất nhiều cá gáy. Mỗi lần cất rớ lên mà có nhiều cá lớn là những người đứng coi la lên rầm trời. Cho tới sập tối người ta cũng còn phấn khích vói chuyện bắt được nhiều cá to. Hầu như mọi người đều nghĩ trong bụng lụt lội năm ni chẳng có chi đáng lo.
Có một việc đặc biệt tôi muốn nói ở đây. Cửa Hữu và các cửa khác của kinh thành Huế đều có hai cánh cửa gỗ to lớn với khung cửa và những thanh đố ngang dọc rất chắc chắn, cao đền gần vòm cửa. Mỗi buổi chiều, cứ đến 5 giờ, cửa Hữu đươc đóng lại và khóa bằng sợi xích và cái khóa to tướng.
Tôi nghe Ba tôi nói lại là cửa Chánh tây, cửa Nhà Đồ và cửa Quãng Đức cũng bị đóng và khóa tương tự như cửa Hữu.  Năm đó tình hình chính trị và quân sự rất căng thẳng và phức tạp.  Người ta đóng mấy cái cửa thành vì sợ sự xâm nhập của Việt minh vào thành nội từ Vạn xuân qua bến đò Kẻ vạn  và từ Kim long hậu thôn qua bến đò Ba bến.
Chiều hôm đó, tôi đội nón dầm mưa ra ngoài cống Cửa Hữu coi người ta cất rớ và xem chừng nước lớn đến đâu. Khi Ba tôi kêu vô nhà ăn cơm chiều thì người tôi ướt sũng. Hơ lửa than của Mẹ cho ấm, ăn một bụng cơm no nê rồi tôi lên phản ngựa nằm ngũ một giấc say sưa không biết trời trăng chi nữa.
Nữa đêm, tôi giật mình khi nghe cạch một tiếng rồi có tiếng rẹt rẹt, tôi mơ màng mớ ngũ mở mắt nhìn quanh. Một vịt dầu leo lét để ở góc phản, xung quanh tối om. Tiếng Ba tôi :” Dậy đi con”.  Định thần nhìn kỹ, tôi thấy một cái mũi ghe câu áp sát phản tôi nằm. Hèn chi có tiếng rẹt rẹt khi ghe cặp sát vào phản. Nước tràn lên phản làm ướt lạnh lưng tôi. Thì ra, lúc tôi ngũ quên thì Ba tôi cùng đi với Cậu Cháu ( anh ruột Mẹ tôi) dùng ghe câu di tản những người khác đi hết cả rồi. Bây giờ trở lại đón tôi cuối cùng thì nước lụt đã dâng lên nhanh và cao xấp xấp mép phản ngựa tôi ngũ rồi. Chỉ chậm một chút nữa nước dâng lên ngập chắc chắn tôi chẳng biết xoay xở làm sao đành phải  “ xuôi tay cho Mệ nuốt “ thôi.
Nước đã tràn qua đường ray và quốc lộ 1 từ hồi nào rồi. Trong đêm tối, nghe tiếng nước mưa, tiếng nước  chảy trên đường tôi nghe cả cơn cuồng nộ của thiên nhiên xuống thành phố Huế.
Chiếc ghe di chuyển chậm chạp trong bóng tối nhờ nhờ chập choạng tôi vẫn cảm nhận sức nước chảy ào ạt cuồn cuộn bên dưới ghe.
Chiếc ghe câu nhỏ bị sức nước đẩy đi như muốn lật úp. Ba tôi phải nhảy xuống làn nước lụt lạnh giá đẩy ghe trong vườn nhà người ta . Đáng lý đưa tôi đến nhà Mệ Viên Dép ( một biệt thự gần Cống Thủy quan, có vườn rộng, đất cao nước lụt chưa lên tới) cùng với gia đình tôi đang trú ngụ ở đó, ba tôi đưa ghe ra đường quốc lộ  lại  tạt ghe vào nhà Bác Phẩm, một người làng tản cư xuống Phú Thạnh làm nghề guốc.
Trước mặt nhà Bác Phẩm là khu vườn của ông ngoại tôi.Từ nhà Bác Phẩm, Ba tôi  có thể quan sát nhà tôi ( gần nhà mà xa cửa ngỏ). Hầu hết nhà trong khu tôi ở, nước có vẻ như chấm mái. Ngay chỗ nhà Bác Phẩm nói là chỗ cao nhưng đến sáng hôm sau, nước cũng lên xấp xấp mặt phản ngựa chúng tôi ngồi.
Tuổi con nít mau đói, sáng hôm sau ngồi trên phản ngựa, tôi ngữi thấy mùi cơm chín dưới nhà bếp bốc lên thơm ngào ngạt, Ba tôi xuống bếp xin cho tôi một chén cơm nóng. Cơm nóng chan một chút nước mắm ngon vô cùng. Có lẻ cả đời tôi không khi nào được  ăn một chén cơm ngon như vậy. Sau này tôi mới biết, người tạm trú ở nhà Bác Phẩm đông nên cơm nấu ra chỉ đủ phát cho mỗi nhà một chén, tôi ăn hết thì Ba tôi nhịn chớ sao !!
Mẹ tôi sau này ,khi nào nói đến chuyện lụt 53 cũng nói về Mệ Viên Dép với lòng kính trong và biết ơn sâu sắc. Bà nội tôi , mẹ tôi, 2 đứa con dại và em bé mới sinh chứa đầy bốn tháng, được Mệ ưu tiên chăm sóc, cho chiếu nằm, chăn ấm, thức ăn .
Vừa mới ăn cơm xong, đang ngồi ngó mông ra ngoài sân vườn thấy nước lụt chảy vùn vụt , xoáy reo ầm quanh mấy gốc cây to, tôi bổng giật nẩy mình khi nghe tiếng rầm rầm  vang dội như sấm dậy. Một làn sóng cao như một cột sóng thần tràn qua vườn cây có nhiều cây ăn quả thân lớn của Ông ngoại tôi. Cây cối bị xô dạt gảy đổ.  Nhà Bác Phẩm bị sóng xô nghiêng ngã, cơ hồ muốn sập nhà. Tôi hoảng quá, thấy người lớn nhảy xuống nước lội lỏm bỏm, tôi cũng nhảy xuống đinh chạy thì ba tôi níu tay tôi lại.” Đừng, không răng mô, đừng sợ”. Tôi  nhìn tay ba tôi đang nắm chặt tay tôi. Trên tay  Ông có đeo cái đồng hồ, vô tình  tôi liếc thấy kim đồng hồ chỉ  9 giờ 15 phút.
Từ sáng cho tới chiều tối nước  cầm chừng không cao lên  chút nào nữa. Nước ngâm như thế cho đến sáng hôm sau thì rút xuống nhanh.
Trời mưa xối xả. ba tôi nói “ Mưa xối bùn, hết lụt rồi”.
Nhìn cảnh nhà cửa sau khi nước rút đi thật não lòng. Cũng như nhiều nhà láng giềng và trong xóm, nhà tôi đổ nghiêng. Bàn ghế tủ giường nghiêng đổ nằm chỏng chơ. Bùn bám trên mọi vật dụng.  Hàng chục bao thóc đổ tung tóe, ngâm nước lụt phải bỏ đi. Mấy ngày sau trên nền đất những đám mạ non lên xanh tốt. Mất cả tuần Ba tôi mới dựng lại nhà, quét dọn bùn và phơi phong vật dụng.
Nghe nói trên làng Bằng lãng ( Tuần) nước lụt cuốn trôi nhà cửa và người nguyên một ngôi làng.
Củi rều và rác rến còn vương trên nửa thân cây!! Tang thương phủ màn u ám trên quê hương Thừa thiên và Huế. Cả tỉnh có 335 người chết, 6.192 ngôi nhà bị đổ.
…………
Cửa Hữu sập lúc 9 giờ 15 phút sáng ngày 22 tháng 9 năm 1953. Có lẽ ba cửa Chánh tây, Nhà Đồ, Quãng Đức cùng đổ sập ngày hôm ấy.
Nguyên một cái cửa thành đổ sập xuống, gảy ra thành từng khối gạch to lớn có hình dáng bất định. Màu gạch vồ đỏ au, màu những đường vữa vôi trắng hếu..  Ngay vị trí chân móng cửa thành kéo dài qua hai bên là một hố sâu hoắm. Dòng nước hung hản chảy qua cửa thành bị cửa gỗ chận lại, nhửng cây gỗ, củi rều trôi theo nước lụt tấp vào cửa chặn dòng nước chảy bên trên nên nước tuôn bên dưới xói mòn chân đế của cửa thành. Giống hệt người đốn cây, từng nhát, từng nhát rìu chặt gốc về một phía, chỉ chặt đền hơn nửa thân, cây đã đổ. Nước xói làm hỏng mất chân đế phía ngoài nên toàn bộ cửa đổ sập ra bên ngoài thành. Nếu cửa thành không khóa lại, dòng nước không bị chận lại, có lẽ 4 cửa thành đã không bị sập đổ như thế.
Mấy hôm sau, nhiều người dân đem búa , đục tìm cách gở gạch ra từng viên để dùng nhưng vữa vôi pha mật đường gắn kết gạch quá chắc chắn nên không ai lấy được dù chỉ một viên nguyên vẹn.
Cửa Ngăn dưới ( Thể nhơn) không bị xói mòn chân đế vì dòng nước lũ bị kỳ đài chận lại nên dòng chảy đổi hướng và sức nước yếu đi.
……………
 Những cửa thành của Kinh thành Huế  là vật chứng cho những tang thương. Cửa thành ghi dấu những sự kiện từ kinh đô thất thủ ngày (23.5. Ất dậu, 1885) sau cuộc chiến không cân sức giữa phe chủ chiến của triều đình Huế với giặc Pháp  rồi đến sự tàn phá của thiên tai qua trận lụt 1953 làm 4 cửa thành đổ sập, rồi lại trải mình  qua chiến sự Tết Mậu thân (1968) với bao nhiêu vết hằn của bom đạn .

Bốn cửa thành đã được xây dựng lai từ năm 1998 cho đến gần đây mới xong. Chỉ cửa thành là mang diện mạo mới , còn phần thành xưa   vây quanh kinh thành cổ kính rêu phong vẫn như mang theo mình dấu vết thời gian và  khổ nạn triền miên của Huế.
Lê Duy Đoàn.
Ngày 6/ 12/2012

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét